Guest viewing is limited

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
Vẹt (két) là tên thường gọi dùng cho tất cả các loài chim thuộc họ vẹt Psittaci. Nhờ vào bộ lông rực rỡ mà chúng trở thành loài chim cảnh trong nhà và trong các dịp lễ hội.

Có hơn 3.000 loài vẹt sống rải rác khắp thế giới (trừ Châu Âu và Nam cực) những loài vẹt sống ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới được chia làm 6 phân họ khác nhau như : vẹt lory, vẹt mào, vẹt đuôi dài, vẹt xanh, vẹt đuôi dài Nam Mỹ và một số vẹt đặc trưng cho từng vùng.

Họ vẹt sống ở Nam Mỹ thường có đuôi dài và nhọn. Chúng có bộ lông màu sáng và được xem là loài lớn nhất. Loài vẹt sinh sống ở New Zealand và Australia có tên là vẹt “cầu vồng” vì chúng có sắc lông rực rỡ. Một số loài vẹt xanh Châu Phi là những chú chim cảnh hết sức nổi tiếng vì chúng biết nói.

Loài vẹt thường có mỏ cong, hai khớp mỏ đều hướng cong về phía trước, phần khớp trên thường lớn hơn và có chức năng bảo vệ cho lưỡi vẹt. Ngoài việc gắp và nghiền thức ăn, mỏ vẹt còn giúp nó trong việc leo trèo. Chiểc lưỡi to, mềm của vẹt vừa là cơ quan xúc giác vừa giúp cho nó có thể phát ra những tiếng khác nhau và luyện nói. Chân vẹt ngắn và có 4 ngón, ngón 2 và 3 chĩa ra phía trước, 2 ngón còn lại quặp ra sau. Cấu tạo các ngón chân đặc biệt này giúp loài vẹt có thể bám chắc chắn và giữ được thăng bằng trên cây. Đôi cánh của chúng rất phát triển, một số loài còn có đuôi dài để thích nghi với việc bay lượn.

Ban đầu, lông vẹt luôn nổi bật với màu xanh lá cây, về sau xuất hiện thêm một số loài có màu đỏ, vàng, xanh nước biển. Một số loài vẹt có bộ lông màu sáng nhưng ngược lại có vài loài mang màu lông đen, màu tro hoặc trắng. Loài vẹt có mào thường có kích thước rất khác biệt, có con chỉ bằng kích thước của một chú chim sẻ so với vẹt Nam Mỹ với chiều dài gần 1m.Vẹt là loài chim sống theo từng đàn lớn, thức ăn của chúng thường là các loại quả, hạt và một số loài thực vật khác. Ngược lại, một số loài lại ăn mật ong, ngay cả các loại côn trùng và ấu trùng cũng trở thành thức ăn của chúng.

Vẹt thường đẻ trứng trong các hốc cây có sẵn hay trong những chiếc tổ của các loài chim khác bỏ lại. Trứng vẹt màu trắng, những chú vẹt lớn chỉ đẻ từ 2-3 trứng trong khi những con vẹt nhỏ hơn lại cho ra cả tá trứng. Cả chim trống và chim mái đều cùng nhau ấp trứng. Chúng có tuổi thọ từ 15 đến 87 năm.

Vì điều kiện có hạn, bài này chỉ giới thiệu một số loài vẹt đặc trưng vủa từng vùng... Như loài vẹt Lory có các loài Lory đỏ, xám, khoang, đặc biệt là loài vẹt Stephen quý hiếm, lần đầu tiên năm 1907 người ta phát hiện ra loài vẹt này có mùi thơm chúng thường sống ở vùng đảo hoang Nam Thái Bình Dương. Loài vẹt Cầu Vồng (rainbow lorikeets) trở thành loài chim cảnh được ưa chuộng nhất trên thế giới vì chúng có bộ lông màu sắc như cầu vồng. Hay như loài vẹt Phillipin Hanging Parrot sống trên đảo Mindanao được nhà nước bảo vệ cấm săn bắt...

Trong 6 họ vẹt thì loại vẹt mào có kích thước lớn hơn. Chúng có chiếc đầu lớn với chiếc mào đầy ấn tượng và có thể xoè ra như cái quạt. Loài vẹt mào thì có mào xanh, vàng, hồng, mào Pucospus, Gang Gang... Chúng thường sống ở quần đảo Salomon ở Australia. Trong các loài vẹt trên thế giới thì vẹt Nam Mỹ là loài lớn hơn cả. Màu sắc lông rất phong phú, chúng cũng sống từng đàn và rất ngoạn mục, kỳ diệu khi chúng cùng tụ đàn bay lên xà xuống như những ánh chớp muôn hồng ngàn tía nơi bìa rừng... Đó là các loài vẹt xanh tía, vẹt vàng xanh, vẹt đỏ, vẹt cánh xanh... Các loài vẹt ở Châu Phi có vóc dáng nhỏ, mập, tiếng kêu to... có khả năng thích nhgi mọi môi trường. Vẹt xanh Châu Phi thường có các loài vẹt đầu xám, mặt đỏ, cánh đen, má đen... Nhiều loài được các quốc gia chú ý bảo vệ. Với loài chim cảnh đầy màu sắc - Vẹt đang là đề tài tem sưu tập của nhiều bạn trẻ ở nhiều nước... Và tem về vẹt ở các nước rất phong phú, cũng rực rỡ muôn màu như chính nó.

(Bài sưu tầm trên internet)
 

Crazy-GiaLai

Thành viên tích cực
Tham gia
24/11/07
Bài viết
281
Điểm tương tác
26
SVC$
0
Ðề: Thông tin chung về loài vẹt (két)

Thêm ít hình ảnh nữa thì bài viết sẽ sinh động hơn bạn ạ. Dù sao cũng cảm ơn bạn vì những thông tin hữu ích trên
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
Ðề: Thông tin chung về loài vẹt (két)

Gia đình họ vẹt bao gồm khoảng 330 loài chim (thuộc bộ két - Psittacidae) , theo thứ tự về mặt sinh học, chúng được chia làm hai phân họ:

Phân họ Loriinae (lories và lorikeets) và Phân họ Psittacinae

Phân họ Loriinae


Về mặt hình dáng và cấu tạo, phân họ Loriinae bao gồm các loài có kích thước nhỏ đến trung bình sống trên cây, ăn mật hoa và trái cây mềm. Đặc trưng đầu lưỡi to và có búi gai (brush-tipped). Chúng phân bố rộng rãi trong khu vực Australia, Polynesia đông nam châu Á, Papua New Guinea, Đông Timor, Úc, ... và phần lớn có bộ lông màu rất sáng.



Phân loại vẹt trong phân họ Loriinae và các chi:

I. Chi Chalcopsitta: Gồm có 4 phân loài, bao gồm:
1. Chalcopsitta atra - Tên tiếng Anh: Black Lory.

597px-Chalcopsitta_atra_-two_perching-8a-1c.jpg

Đại diện chi Chalcopsitta - Vẹt Black Lory​

Chi Chalcopsitta atra Gồm có 3 phân loài:

1. Chalcopsitta atra atra <SMALL>(Scopoli) phát hiện năm 1786,</SMALL> có nguồn gốc ở phía tây bán đảo Doberai của tỉnh Indonesia, Tây Papua và các đảo gần đó.
2. Chalcopsitta atra bernsteini <SMALL>Rosenberg, phát hiện năm 1861</SMALL> , trên đảo Misool của Indonesian.
3. Chalcopsitta atra insignis <SMALL>được phát hiện năm 1878,</SMALL> về phía đông bán đảo Doberai của tỉnh Indonesia, các hải đảo gần đó, và các bán đảo Boberai của Tây Papua.

Chúng có kích thước 32 cm (12,5 in) bộ lông của nó phần lớn là màu đen và trên mông có màu xanh. Màu đỏ đánh dấu trên khuôn mặt, bắp đùi, và đuôi khác nhau giữa ba phân loài. Không phân biệt được giới tính nhờ vào hình dáng bên ngoài. Chúng là loài bị đe dọa trên sách đỏ IUCN được liệt kê trong Phụ lục II của CITES năm 2008.


2. Chalcopsitta duivenbodei - Tên tiếng Anh: Brown Lory. Nó được tìm thấy tại Indonesia và Papua New Guinea trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng đất rừng thấp.

Brown_Lory_%28Chalcopsitta_duivenbodei%29-7.jpg

Vẹt Brown Lory (Chalcopsitta duivenbodei)
3. Chalcopsitta sintillata - Tên tiếng Anh: Yellowish-streaked Lory. Nó được tìm thấy tại Indonesia và Papua New Guinea trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng đất rừng thấp và rừng ngập mặn.


Chalcopsitta_sintillata_-Fuengirola_Zoo-8-1c.jpg

Vẹt Yellowish-streaked Lory (Chalcopsitta sintillata)
Vẹt Yellowish-streaked Lory có 3 phân loài khác nữa là:
1. Chalcopsitta sintillata chloroptera (<SMALL>Salvadori) phát hiện năm 1876</SMALL>
2. Chalcopsitta sintillata rubrifrons (<SMALL>Gray,GR) phát hiện năm 1858</SMALL>
3. Chalcopsitta sintillata sintillata <SMALL>(Temminck) phát hiện năm 1835</SMALL>




4. Chalcopsitta cardinalis - Tên tiếng Anh: Cardinal Lory. Sống chủ yếu ở rừng ngập mặn và các khu rừng đất thấp của Quần đảo Solomon và Papua New Guinea về phía đông. Thức ăn của nó bao gồm tất cả các loại trái cây có màu đỏ.​




800px-Chalcopsitta_cardinalis_-Busch_Gardens%2C_Tampa_Bay%2C_USA_-upper_body-8a.jpg




Vẹt Cardinal Lory (Chalcopsitta cardinalis)




800px-Chalcopsitta_cardinalis.jpg






Tất cả là bộ lông màu đỏ. Mỏ là màu da cam với màu đen tại gốc mỏ và xung quanh mắt màu lông có sắc màu da cam-màu đỏ. Chân của nó là màu xám. Trống mái có hình dáng giống hệt nhau về màu sắc. Khi còn nhỏ, chúng có màu đen ở mỏ khá nổi bật, mắt màu xám và có các vùng lông vũ màu vàng. Chúng là loài bị đe dọa trên sách đỏ IUCN được liệt kê trong Phụ lục II của CITES năm 2008.​





(còn nữa)





 
Chỉnh sửa lần cuối:

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
Ðề: Thông tin chung về loài vẹt (két)

II.Chi Eos gồm có 6 phân loài, gồm:
1. Eos cyanogenia tên tiếng Anh còn được gọi là Red Biak Lory hay Black-winged Lory.

Chúng có kích thước trung bình, và có thể lên đến 30 cm (12 in) dài, đuôi dài.Chúng có một bộ lông màu đỏ tươi sáng, vai màu đen, mống mắt đỏ, lông ánh màu da cam sang đỏ và từ mắt kéo dài về sau tai màu tím. Dưới bụng có sắc đỏ chuyển sang màu vàng với những vạch đen. Cả hai giới đều có sắc lông tương tự.

Stavenn_Eos_cyanogenia_00.jpg

BlackWingedLorikeet.jpg

Vẹt Red Biak Lory hay Vẹt Black-winged Lory (Eos cyanogenia)


Chúng là loài đặc hữu tại Indonesian, được phân bố từ các khu rừng có môi trường sống ven biển của Biak, Numfor, Manim và Mios, một số đảo trong vịnh Cenderawasih, Papua. Chúng sống, sinh sản và làm tổ trong các ngọn cây dừa trên đảo. Do môi trường sống đang dần dần thu hẹp, nạn săn bắn bừa bãi nên chúng được đánh giá là loại có nguy cơ bị đe dọa bị tuyệt chủng, được liệ kê trong mục lục II của CITES.



2. Eos squamata tên tiếng Anh là Violet-necked Lory.

Chúng là loài đặc hữu của Indonesia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng rừng đất thấp ẩm nhiệt đới, rừng nhiệt đới và rừng ngập mặn.

600px-Eos_squamata_-captive-8a-2c.jpg

800px-Violet-necked_Lory_%28Eos_squamata%29_-two_in_tree.jpg

784px-

Vẹt Violet-necked Lory (Eos squamata)


3. Eos reticulata, tiếng Anh: Blue-streaked Lory.​

Chúng có kích thước trung bình (31 cm), chủ yếu là màu đỏ với các sọc màu xanh từ mắt thông qua các lông tai, đuôi màu nâu đen, và các sắc thá́i khác nhau về những vệt đen trên lông cánh.​


662px-Eos_reticulata-20040821.jpg

800px-Blue-streaked_Lory_%28Eos_reticulata%29.jpg


Nó được tìm thấy trong các quần đảo Tanimbar và Babar và hầu hết ở khắp Indonesia. Nó cũng được tìm thấy ở các quần đảo Kai, và là loài có nguy cơ tuyệt chủng. Chúng sinh sống trong rừng ngập mặn, với loại cây chủ yếu là dừa nước, rừng trồng và rừng. Chúng là loại ăn mật hoa và trái cây và là loài hoạt động rất mạnh với những tiếng gọi ồn ào nhất trong các loài Lory. Rất xã hội và tình cảm, lorie đã được lưu giữ như là vật nuôi với sự phổ biến ngày càng tăng, biểu thị cho cuộc sống lứa đôi hạnh phúc và bền vững, vì vậy chúng được xếp vào nhóm vẹt uyên ương.​

400px-Blue-streaked-lory-Eos-reticulata.jpg

Eos_reticulata-20040821B.jpg

Vẹt Blue-streaked Lory (Eos reticulata)



4. Eos histrio. Tiếng Anh: Red-and-Blue Lory​

Eos histrio là một con vẹt đặc hữu sống trên cây của Indonesia. Chúng được xếp vào loại nguy cấp, (sách đỏ IUCN loài bị đe dọa - 2006) vì nó luôn là đối tượng săn bắt cho nền thương mại và chúng đang bị mất nhiều môi trường sống. Dân số ước tính là chỉ 5.000-10.000 con. Năm 2006.​

800px-Eos_histrio_-two_captive-6a.jpg

Vẹt Red-and-Blue Lory (Eos histrio)




5. Eos bornea - Tên tiếng Anh Red Lory.

Là loài đặc hữu của Moluccas và các đảo lân cận tại Indonesia trong môi trường vùng đất thấp ẩm nhiệt đới rừng nhiệt đới và rừng ngập mặn.

Chúng là một loài chim lồng khá phổ biến vì dễ dàng thích nghi với điều kiện nuôi nhốt. Chúng được xem là loài thông minh, có tính cách vui tươi cùng bộ sắc lông sáng. Red Lory chủ yếu là một màu đỏ với màu đen sâu và điểm dấu màu xanh trên cánh và mông, mô hình này thay đổi từ cá nhân riêng lẻ. Sắc lông đuôi có màu tối. Chúng có kích thước 10-12 inch (31 cm) và có mỏ màu da cam.

397px-Eos_bornea-20051118.jpg
400px-Red_Lory_%28Eos_bornea%29_Jurong_Bird_Park-3.jpg

Các nhà điểu học nghi ngờ giữa hai phân loài như là giống lai có thể được tìm thấy. Hai phân loài khác không được phổ biến, Rothschild Lory đỏ (Eos bornea rothschildi) và Bernstein của Lory đỏ (Eos bornea bernsteini).

Red_Lory_%28Eos_bornea%29_-two_on_food_tray.jpg

800px-Eos_bornea_-Ardastra_Gardens_-Nassau_-Bahamas-8-2c.jpg

Nó chủ yếu là màu đỏ và bộ lông của cơ thể phía trên là tất cả màu đỏ. Có màu đỏ, màu xanh, và các đốm đen trên lưng và cánh, và đuôi có màu đỏ nâu với màu xanh lông dưới đuôi. Mỏ là màu da cam và chân là màu xám. Trống và mái có hình dáng bên ngoài giống hệt nhau. Con chưa trưởng thành có màu nâu ở mỏ.

600px-Eos_bornea_-Buffalo_Zoo-8c-3c.jpg

Vẹt Red Lory (Eos bornea)


6. Eos semilarvata - tên tiếng Anh: Blue-eared Lory

Eos_semilarvata_-San_Diego_Zoo-5.jpg

Vẹt Blue-eared Lory (Eos semilarvata)


Chúng chỉ tìm thấy ở đảo Seram, tỉnh Maluku, Indonesia, ở độ cao thấp 800m, nhưng tập trung nhiều nhất chủ yếu ở độ cao từ 1600-2400m. Chúng là loài có kích thước nhỏ nhất (24 cm) Nó có một cơ thể màu xanh đỏ với má, cằm, và tai-lông, bụng màu tím. Mỏ màu cam nhưng với những con chưa trưởng thành, mỏ có màu hồng tươi. Chúng ăn mật hoa, trái cây và đánh giá là loài được bảo vệ.


(còn nữa)





 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
Ðề: Thông tin chung về loài vẹt (két)

III. Chi Pseudeos:

Chỉ có một đại diện dành cho chi này. Đó là Pseudeos fuscata - tiếng Anh là Dusky Lory. Nhưng tên thông dụng phổ thông cho loài này là (tiếng Anh) White-rumped Lory hay Dusky-orange Lory. Nó được tìm thấy ở Indonesia và Papua New Guinea.

Louisa_-_Dusky_Lory.JPG

Lory Dusky là con vẹt đuôi ngắn dài khoảng 25 cm (10 in). Màu sắc chúng chủ yếu là màu nâu và có những nét điểm thêm màu trắng ở mông. Chúng có hai giai đoạn màu sắc, các mảng màu trên khắp trên ngực cùng với bụng của nó hoặc là màu vàng hoặc màu cam. Mỏ có màu da cam tối và có một diện tích da cam để trần tại hàm dưới. Mống mắt có màu đỏ và các chân là màu xám. Con trống và mái giống hệt nhau ở hình dáng bên ngoài.

Các hình ảnh dưới đây chỉ cho bạn thấy, màu lông đa dạng của chúng.

294px-Pseudeos_fuscata_IMG_1859.JPG
398px-Dusky_Lory_%28Pseudeos_fuscata%29_-on_branch_at_Buffalo_Zoo.jpg

399px-Pseudeos_fuscata-20051118.jpg

750px-Dusky-Lorikeets4.jpg


Ngoài các loài Dusky Lory bản địa, các phạm vi vùng khác cũng tìm thấy chúng, bao gồm các đảo Salawati và Yapen trên độ cao khoảng 2500m, trong môi trường tự nhiên là cận nhiệt đới, nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp hay rừng nhiệt đới ngập mặn.

(Còn nữa)
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
IV. Chi Trichoglossus:


Chi này được phân phối rộng rãi ở Australia, Wallacea và Melanesia và một số vùng ở Việt Nam và Micronesia. Chúng đặc trưng bởi vùng ngực đầy màu sắc. Trong chi này, còn chứa một số loài và phân loài.
1. Trichoglossus Ornatus - Tên tiếng Anh Ornate Lorikeet, cũng còn gọi là Ornate Lory.




600px-Trichoglossus_ornatus_-Nahsville_Zoo-8a-4c.jpg




Đây là loài đặc hữu của Sulawesi và đảo nhỏ gần đó của Indonesia. Nó được tìm thấy trong rừng, rừng ngập mặn và các trang trại đồn điền, và là dân cư địa phương phổ biến.​



Trichoglossus_ornatus_-upper_body_-Nashville_Zoo-8a.jpg

Màu sắc ở phần đầu và cổ, ngực​


Con vẹt chủ yếu là màu xanh lá cây dài khoảng 25 cm (10,0 in). Phía trên đầu của nó ở trên đôi mắt là màu tím/màu xanh và dưới mắt của nó là màu đỏ. Phía sau đầu có màu đỏ và tiếp đó là màu vàng kéo từ đằng sau đôi mắt. Nó không có một cổ áo ở mặt sau của cổ mà loài Rainbow Lorikeet có. Cằm và ngực có dải ngang màu đỏ và màu xanh lam. Bụng có màu xanh là cây điểm lác đát sắc vàng, mỏ có màu da cam đỏ, họng dưới là màu da cam tối, vòng mắt là màu xám sẫm, và chân có màu xám. Là loài có nguy cơ tuyệt chủng trong Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa 2009.​


2. Trichoglossus rubiginosus, tên tiếng Anh: Pohnpei Lorikeet hay Ponape Lory.​

Là loài đặc hữu của đảo Pohnpei và Ahnd và Ahnd gần đảo san hô ở Micrinesia. Trong lịch sử, loài cũng xuất hiện trên đảo san hô gần Namoluk Chuuk, và có thể chúng có một vùng phân bố rộng khắp Micronesia hơn hiện nay. Chúng sống vùng rừng đất thấp nhiệt đới ẩm với chế độ ăn uống gồm có mật hoa và phấn hoa từ dừa và cây ăn quả và một số ấu trùng côn trùng. Làm tổ trong lỗ của một thân cây và chỉ đẻ một quả trứng duy nhất. Tuy nhiên chúng không được coi là loài bị đe dọa.​

639px-Pohnpei_Lorikeet.jpg


Lông chủ yếu là màu hạt dẻ, ánh đỏ với những khoảng ngang. Những con càng trưởng thành càng có màu sắc tối hơn. Các lông đuôi có màu vàng ô liu. Chân của nó là màu xám. Con đực có mỏ màu cam và màu vàng/cam trong khi con mái mỏ vàng xám sáng. Con chưa trưởng thành đều có mỏ màu nâu.​


3. Trichoglossus Johnstoniae - tên tiếng Anh Mindanao Lorikeet hoặc Johnstone's Lorikeet​


450px-Trichoglossus_johnstoniae_-London_Zoo%2C_England-8a.jpg

Là loài đặc hữu của Philipine và Mindanao. Dài 20 cm (8 in), sắc lông chủ yếu là màu xanh lá cây với màu vàng nổi bật ở phần mặt của nó. Mặt của nó là màu đỏ và có băng tím sẫm màu bao quanh đầu. Những mảng rộng lớn màu vàng trên bề mặt dưới của cánh. Chân màu xanh xám, mỏ màu cam, vành mắt có màu xám sẫm. Trống mái giống hệt nhau trong hình dáng bên ngoài. Con chưa trưởng thành có ít màu đỏ trên khuôn mặt và băng tím quanh đầu được thay thế bằng màu nâu, mắt màu xám nhạt và mỏ là màu nâu sẫm.​

Chúng có hai phân loài khác, nhưng không phổ biến:

  • Trichoglossus j. johnstoniae - phổ biến ở trung tâm và phía đông nam Mindanao
  • Trichoglossus j. pistra - phổ biến vùng phía tây Mindanao
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
4. Trichoglossus flavoviridis - Tên tiếng Anh Yellow and green Lorikeet

Là loài đặc hữu của Sulawesi và quần đảo Sula thuộc Indonesia. Chúng được tìm thấy trong rừng ở độ cao lên đến 2.400 m và là loài phổ biến ở nơi đây.

Trichoglossus_flavoviridis_-Loro_Parque-6a-4c.jpg


Chúng có màu xanh chủ yếu và dài khoảng 20 cm (8,0 in). Chúng có hai phân loài khác, nhưng không phổ biến, đó là:​

  • Trichoglossus flavoviridis flavoviridis, <SMALL>Wallace, 1863</SMALL> - Phân bố tại Quần đảo Sula
  • Trichoglossus flavoviridis meyeri, <SMALL>Walden, 1871</SMALL> - Phân bố tại Sulawesi, là loài nhỏ hơn, có vạch màu vàng xen lẫn trên nền ngực màu xanh lá cây.​


 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
5. Trichoglossus euteles - tiếng Anh: Olive-headed Lorikeet, còn có tên gọi khác là Perfect Lorikeet.

Nó được tìm thấy trong rừng và các khu vực Timor và các đảo nhỏ gần đó.

Trichoglossus_euteles_-Indianapolis_Zoo_-6.jpg

498px-Olive-headed_Lorikeet_%28Trichoglossus_euteles%29_-Pittsburgh_Zoo.jpg


Trichoglossus_euteles_-Indianapolis_Zoo_-5.jpg

450px-Trichoglossus_euteles_-captive-8a.jpg

Chúng chủ yếu là màu xanh lá cây, dài khoảng 24 cm (9,5 in). Đầu có màu ô liu được phân ranh giới bởi một đường viền như cổ áo màu xanh lá cây, mỏ có màu cam đỏ, chân xám. Không có ranh giới về màu sắc nhằm biểu thị giới tính. Con non có đầu màu hơi xanh, mỏ nâu.


 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
6. Trichoglossus chlorolepidotus - Tên tiếng Anh là Scaly-breasted Lorikeet

Đây là một cư dân tập trung nhiều trong rừng ở miền đông Australia. Lần đầu tiên được mô tả bởi nhà động vật học người Đức Heinrich Kuhl vào năm 1820. Nó còn có nhiều tên gọi khác như Gold and Green Lorikeet, Greenie, Green Lorikeet, Green and Yellow Lorikeet, Green Keet, Green Parrot, Green Leek, Greenie, và Green Leaf. Trong từ "chloro" trong tiếng Hy lạp cổ có nghĩa là "xanh" và từ "lepidotus" trong tiếng Latin có nghĩa là "vảy".


600px-Trichoglossus_chlorolepidotus_-Australia-8a-3c.jpg

Chúng phổ biến trong hầu hết các khu vực rừng gỗ của Đông Australia từ Bamaga, trên các đỉnh núi của Nỏth Queensland, phía nam tới Illawarra huyện trên New South Wales bờ biển phía nam, cũng trên một số đảo ngoài khơi, nhưng giới hạn trong vùng đồng bằng ven biển và Tablelands lân cận; thỉnh thoảng tìm thấy dọc theo đường nước phía tây của dãy Great Dividing. Nhưng tập trung phong phú và chủ yếu là định canh định cư ở phía bắc; ít hơn rất nhiều và du cư ở phía nam.

600px-Trichoglossus_chlorolepidotus_-Australia_-two_perching-8-4c.jpg

Chúng dài khoảng 23 cm (9,0 in). Trên đỉnh đầu miện và mặt có màu ngọc lục bảo, màu xanh lá cây hơi nhuốm màu với màu xanh, trong khi lông mặt sau của cổ và cổ họng và ngực có màu vàng, các rìa lông rộng với màu xanh lá cây, tạo cho sự xuất hiện của vảy. Đuôi có màu xanh lá cây với các cơ sở của các đuôi phía ngoài - lông được đánh dấu bằng màu cam/màu đỏ. Sườn thấp, bắp đùi và lông phía dưới bụng màu xanh lá cây, được đánh dấu bằng màu vàng mạnh mẽ, trong khi dưới cánh - lông có màu cam/màu đỏ. Chúng có đôi mắt màu cam/màu đỏ, và mỏ có màu san hô đỏ tối, chân là màu xám nâu. Trống và mái có màu sắc giống nhau.

800px-Lorikeet-scaly-breasted.jpg

Các con non có màu sắc giống như con trưởng thành nhưng đuôi ngắn hơn. Đôi mắt có màu nâu hoặc đen và các đốm nâu trên ngực có dấu hiệu của màu vàng.


790px-Scaly-breasted_Lorikeet_Kobble_Dec06.JPG

Thức ăn chủ yếu là phấn hoa, mật hoa từ cây tràm lá rộng, cũng như các loại trái cây khác và các loại ấu trùng côn trùng. Chúng thường hay tấn công vào vườn cây, ruộng lúa, bắp ngô để kiếm thức ăn và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng trong vùng trồng trọt.


800px-Trichoglossus_chlorolepidotus_%28juvenile%29-8.jpg

Những con chim làm tổ trên cây rỗng, thường là cao so với mặt đất, với một lớp bụi gỗ như là một tấm nệm ở phía dưới, Chúng thường đẻ hai trứng, ít khi ba, chúng có màu trắng, hình bầu dục, và khoảng 26 X 20 mm, ấp kéo dài khoảng 25 ngày. Con trống dành nhiều thời gian trong tổ rỗng, nhưng dường như không chia sẻ việc ấp trứng. Con non rời khỏi tổ sáu đến tám tuần sau khi nở.

Chúng thích nghi khá tốt với điều kiện nuôi nhốt, có hành vi vui tươi trong môi trường yên tĩnh. Trong loài này ghi nhận có sự đột biến gien: đột biến màu xanh, với bộ lông màu xanh đậm và đánh dấu vảy trước ngực màu trắng, đã được nuôi ở Australia.



 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
7. Trichoglossus - Tên tiếng Anh: Rainbow Lorikeet

400px-Rainbow_lorikeet.jpg



Là một loài vẹt sống tại Australia, miền đông Indonesia (Maluku và tây New Guinea), Papua New Guinea, New Caledonia, quần đảo Solomon và Vanuatu.
.​

Tại Úc, phổ biến dọc theo bờ biển phía đông, từ Queenlands đến Nam Úc và tay bắc Tamsania; trong môi trường rừng nhiệt đới, các bụi cây rậm vùng ven biển và cả trong khu vực rừng. Một số đơn vị phân loài truyền thống được liệt kê như là phân loài của Lorikeet Rainbow và được coi là những loài riêng biệt.

800px-Green-Naped-Lorikeet.jpg



Rainbow Lorikeet được xem là một loài phức tạp cho việc phân loài. Đến nay, trong chi này, người ta đã chia làm 12 phân loài khác nhau:
  • Rosenberg hay Biak Lorikeet, T. h.rosenbergii - Phổ biến tại đảo Biak, Indonesia.Là loài rất đặc biệt, xứng đáng được xem như là một loài riêng biệt.
  • Blue-faced Lorikeet, T. h. intermedius - Phổ biến tại bờ biển bắc tại New Guinea.
  • Green-naped Lorikeet, T. h. haematodus - Phổ biến nam Makulu, tây hải đảo Papua và miền tây New Guinea.
  • Dark-throated Lorikeet, T. h. nigrogularis - Phổ biến tại quần đảo Kan, Aru và miền nam New Guinea.
  • Brook's Lorikeet, T. h. brooki - Phânbố trong một số đảo trong quần thể đảo Aru.
  • Pale-head Lorikeet, T. h.caeruleiceps - Phân bố tại miền nam New Guinea.
  • Southern Green-naped Lorikeet, T. h. micropteryx - Phân bố đông New Guinea.
  • Ninigo Lorikeet, T. h.nesophilus - Phân bố phía tây đảo Manus, Papua New Guinea.
  • Olive-green Lorikeet, T. h.flavicans - Phân bố tại đảo New Hanover, đảo St.Matthias và quần đảo Admiralty.
  • Massena's or Coconut Lorikeet, T. h. Massena - Phân bố đông Guinea, quần đảo Louisiade, đảo Karkar, quần đảo Bismarch, đảo Solomon và Vanuatu.
  • Deplanche's Lorikeet, T. h. deplanchii - Phân bố tại New Caledonia và đảo Loyalty.
  • Swainson's Lorikeet, T. h. moluccanus - phân bố tại miền đông Australia và Tasmania.Với dân số khá lớn tại bán đảo Cape và quần đảo Torres Strait, hiện nay, chúng thường được coi như là một phân loài riêng biệt.
600px-Trichoglossus_haematodus_moluccanus_-Tanganyika_Wildlife_Park-8a-3c.jpg




Swainson's Lorikeet​




Trichoglossus_haematodus_rosenbergii_-Nashville_Zoo-6a-3c.jpg


Rosenberg hay Biak Lorikeet​




600px-Trichoglossus_haematodus_-Tanganyika_Wildlife_Park-8a-4c.jpg


Green-naped Lorikeet​




480px-Trichoglossus_haematodus%2C_flowering_Xanthorrhoea.JPG




Rainbow Lorikeet đã được giới thiệu đến Perth, Tây Úc, Auckland, New Zealand và Hongkong qua nhiều thập kỷ. Cho đến ngày nay, chúng được xem là một trong những loài két cảnh trong phân họ Loriiane có màu sắc đẹp nhất mà con người từng biết tới. Chúng thường sống từng cặp và luôn luôn có đôi.

800px-Trichoglossus_haematodus_-open_wings_-Brisbane_-8.jpg



Kích thước trung bình với chiều dài khác nhau, cơ thể dài từ 25-30 cm (9,8-11,8 in) và có sải cánh khoảng 17 cm (6,7 in). Trọng lượng dao động trong khoảng 75-157 gr. Đối với các phân loài, hầu hết đều có bộ lông màu tươi sáng với hầu hết tất cả các loại màu sắc trên cơ thể. Rainbow Lorikeets thức ăn chủ yếu vào trái cây, phấn hoa và mật hoa, và có một lưỡi thích nghi đặc biệt đối với chế độ ăn uống đặc biệt, thường có những búi gai nhỏ để "nạo" lớp phấn/mật hoa, nhưng chúng cũng có thể mau chóng thích nghi với nhiều loại thức ăn khác có sẵn trong tự nhiên. Chúng tỏ ra rất thân thiện đối với con người và do đó, ở các công viên lớn ở Úc, Queenland, ... nuôi chúng rất nhiều để hấp dẫn du khách cho chúng ăn với các thức ăn đã chế tạo sẵn qua tay người. Tuy nhiên, chúng cũng là loài mà tổ chức Birdlife international tỏ ra quan tâm đặc biệt bởi sự phá hại mùa màng, bởi tiếng ồn gây khó chịu và nạn ô nhiễm do chất phân rải đầy các khu dân cư. Đồng thời, chúng có thể tiêu diệt những con chim bản xứ để chiếm tổ... và có thể gây sự mất cân bằng giữa các loài trong tự nhiên.

 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
V. Chi Psitteuteles (đôi khi còn phân loại trong chi Trichoglossus)

Gồm có 3 loài và 2 phân loài.
1. Psitteuteles versicolor - Tên tiếng Anh: Vaỉed Lorikeet

Là loài đặc hữu tại miền bắc Australia. Sống trong vùng rừng bạch đàn nhiệt đới, đất ngập nước và các vùng đồng cỏ ở miền bắc Queensland, bắc Teritory và đông Australia.

Psitteuteles_versicolor_-Queensland-8-4c.jpg

Chúng có kích thước dài cỡ 19 cm (7,5 in), toàn thân chủ yếu chủ yếu là màu xanh lá cây với màu vàng sọc ngắn chạy theo chiều dọc, vùng trán, đỉnh đầu và mỏ có màu đỏ, vòng mắt màu trắng, mống mắt màu da cam-vàng, chân màu xanh xám. Ở con mái, màu đỏ trên đỉnh đầu ít hơn và thường xỉn màu. Con còn non có trán màu cam, mống mắt màu nâu nhạt và mỏ có màu cam hoặc cam nâu.​


2. Psitteuteles iris - tên tiếng Anh: Iris Lorikeet​

Chúng được phân bố trong các khu rừng và rừng trên các đảo Wetar và Timor ở độ cao 1.500m so với mặt nước biển với những đàn nhỏ. Do mất môi trường sống đang diễn ra, hạn chế và bẫy bất hợp pháp cho ngành thương mại chim lồng, các Lorikeet Iris được đánh giá là Sắp bị đe dọa vào sách đỏ IUCN loài bị đe dọa, Nó được liệt kê trong Phụ lục II của tổ chức CITES.​

529px-Psitteuteles_iris.jpg

Chúng nhỏ chừng 20 cm, màu xanh lá cây như lông két thông thường. Con trống có một trán đỏ, gá́y màu vàng, băng tím từ mắt nằm giữa gá́y và má, và xen lẫn màu vàng bên dưới. Con mái cũng có hình dáng và màu sắc như vậy nhưng được nhận biết vùng má có sắc lông màu xanh hơi vàng.​

Iris_Lorikeet_%28Psitteuteles_iris%29_-upper_body-6-2c.jpg

587px-Psitteuteles_iris_-San_Diego_Zoo_-6.jpg





Trong chi này, còn có hai hay ba loài nữa, được đo bằng mức độ của màu đỏ và màu tím trên khu vực đầu. Gồm có:
  • Ti iris (phân bố tại Tây Timor).​
  • Ti wetterensis (phân bố tại Wetar) - lớn hơn diện tích màu xanh lá cây sẫm màu trên mặt của đầu.​
  • Ti rubripileum (phân bố tại Đông Timor)​
734px-Iris_Lorikeet_%28Psitteuteles_iris%29_-in_cage.jpg





3. Psitteuteles goldiei - Tên tiếng Anh Goldie's Lorikeet

Chúng được tìm thấy trong rừng ở New Guinea, chủ yếu ở độ cao 1000-2200 m so với mặt nước biển.

755px-Goldies_Lorikeet.jpg


Toàn thân dài cỡ 19 cm (7,5 in), chủ yếu là màu xanh lá cây, và dưới bụng của nó là màu vàng, xanh với sọc xanh đen chạy dọc, trên đỉnh đầu có lông màu đỏ, dãi màu xanh tím từ mắt chạy từ đuôi mắt vòng sang bên kia mắt, má có màu tím hoa cà, mỏ đen, vòng mắt màu nâu. Con non có mỏ nâu, vùng đỉnh đầu là màu xanh.​

Chúng được xem như là con vật "cưng", bản tính không phá phách, yên tĩnh, không hiếu chiến. Có thể nuôi một cặp hay trong chuồng rộng lớn hơn với nhiều cá thể. Chúng còn có khả năng học giọng nói của con người.​





 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
IV. Chi Lorius:

Chi này chứa sáu loài và 13 phân loài được phân bố từ Moluccas ở Indonesia, New Guinea và quần đảo Solomon. Chúng có bộ lông với màu đỏ đặc trưng, cộng với hàm lượng khác nhau của màu xanh biển/tím (trong số đó còn có màu trắng), màu xanh lá cây cánh màu vàng, và trong tất cả loài trong chi này, đỉnh đầu thường bao bọc lớp lông đen.
1. Lorius hypoinochrous - Tiếng Anh Purple-bellied Lory

Nó là loài đặc hữu của Papua New Guinea. Sống trong môi trường cận nhiệt đới hay vùng đất thấp rừng nhiệt đới ẩm, rừng ngập mặn nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới ẩm.

454px-Lorius_hypoinochrous_qtl1.jpg


Chúng có chiều dài cỡ 26 cm (10 in). Phần mặt kéo xuống phần ức chủ yếu là màu đỏ với màu đen trên đầu, cánh màu xanh lá cây, và các phần dưới bụng (giữa bụng) màu tím, kéo dài về phần đuôi dưới là màu xanh đậm, chân màu xám đậm, vòng mắt màu xám với mống mắt là màu cam/đỏ, mỏ màu đỏ cam.




Ba phân loài khác nhau với phụ thuộc vào màu sắc bộ lông hơi khác nhau:
  • Lorius hypoinochrous devittatus (<SMALL>Hartert) 1898</SMALL>
  • <SMALL>Lorius hypoinochrous hypoinochrous (<SMALL>Gray, GR) 1859</SMALL></SMALL>
  • <SMALL><SMALL>Lorius rosselianus hypoinochrous (<SMALL>Rothschild & Hartert) 1918</SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL>2. Lorius amabilis - tên tiếng Anh là Lorius lory hay Stresemann's Lory</SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL>Là một giống vẹt có xuất xứ từ New Guinea và các đảo lân cận. Chúng là một con vẹt có màu sắc có màu sắc khá ấn tượng và mạnh mẽ. Hiện có 7 phân loài với phần biểu hiện dễ nhận biết là đỉnh đầu có màu đen và đôi cánh màu xanh lá cây. Phần lông dưới cánh có màu vàng, màu xanh tím ở chân và bụng và đậm đen dần kéo dài trở lên phần bụng, phần má, ức và cổ có màu đỏ, mỏ màu cam. Một điểm nữa để nhận biết loài này là trên cổ, chính giữa hai cánh là một lớp lông có màu xanh dương tím. Chúng là một loài nhìn chung rất phổ biến nhưng phân loài cyanuchen khá hiếm và hiện nay chỉ còn chưa đến 5000 cá thể.</SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL>
494px-Lorius_lory-20051118.jpg
400px-Lorius_lory_-_Bird_Park%2C_Singapore_-_upside_down-8a.jpg
</SMALL></SMALL>​
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL>Môi trường sinh sống của chúng là ở trong rừng nguyên sinh và mép rừng ở vùng đất thấp nhất lên đến 1000m nhưng không phải rừng gió mùa hoặc rừng dừa. Nó thường nhìn thấy từng cặp một và đôi khi trong một nhóm từ 10 hoặc nhiều cá thể hơn. chế độ ăn uống của họ bao gồm phấn hoa, mật hoa, hoa, trái cây và côn trùng.</SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL>
398px-Lorius_lory_-two_on_a_branch.jpg
519px-Lorius_lory-20051118B.jpg
</SMALL></SMALL>
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>​
<SMALL><SMALL></SMALL></SMALL>


<SMALL><SMALL>Các phân loài khác nhau trên mức độ pha trộn về màu sắc, gồm:</SMALL></SMALL>
  • <SMALL><SMALL>
    L. l. lory : phân bố phía tây đảo Papuan, màu xanh ngọc nằm ở gáy, cơ thể và có màu tím, màu xanh lam, lông đỏ dưới cánh.​
  • L. l. erythrothorax : phân bố ở bờ biển phía nam của New Guinea về phía đông của bán đảo Bird's Head, và bờ biển phía bắc. Màu xanh ngọc ở gáy có dạng như cổ áo, màu xanh lên đến nửa bụng. Màu vàng trên cánh. Màu xanh ngọc trên hai cánh, lông dưới cánh là màu đỏ.​
  • L. l. somu : phân bố vùng đồi núi phía Nam trung tâm New Guinea. Lớp lông phủ và gá́y là màu đỏ, màu xanh nằm thấp dưới bụng.​
  • L. l. salvadorii : phân bố phía Tây Bắc bờ biển của Papua New Guinea.​
    Giống như erythrothorax nhưng với màu đen dưới lông xanh.​
  • L. l. viridicrissalis : Đông Bắc bờ biển Tây New Guinea. Giống như nhưng màu xanh đen salvadorii ở khắp mọi nơi.​
  • L. l. jobiensis Yapen và một số đảo Mios. Giống như salvadorii nhưng màu ở ngực và cánh nhạt hơn.​
  • L. l. cyanuchen : đảo Biak. Màu đen trên đỉnh đầu có khuynh hướng chuyển sang xanh đen, cơ thể có màu xanh sọc.
800px-Lory_eating%2C_Jurong_BirdPark.JPG






</SMALL></SMALL>
 

Pe' học huôi chim

Thành viên diễn đàn
Tham gia
19/6/10
Bài viết
24
Điểm tương tác
2
SVC$
0
Hôm nào dư thời gian ghép hết lại thành một bài luôn đi anh, cho ai muốn dơn về làm tài liệu thì dễ dàng hơn. Thanks anh!
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
3. Lorius albidinuchus - Tiếng Anh: White-naped Lory

White-naped Lory, hay Lori Nuquiblanco (Lorius albidinucha) là loài đặc hữu của Papua New Guinea trong môi trường sống là cận nhiệt đới hay nhiệt đới vùng rừng đất thấp ẩm và đang bị đe dọa vì mất dần môi trường sống tự nhiên.

0078.JPG

Cơ thể dài 26 cm (10 in). Nó chủ yếu là màu đỏ với màu đen trên đỉnh đầu và màu trắng trên mặt sau của cổ, có cánh màu xanh lá cây, và một dòng màu vàng thu hẹp chiều ngang trên mỗi bên của cơ thể dưới cổ, chân màu tối màu xám, mỏ đỏ cam, vòng mắt màu xám tối.


4. Lorius chlorocercus - Tiếng Anh: Yellow-bibbed Lory

Là đặc hữu của miền đông quần đảo Solomon, trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới vùng rừng đất thấp ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm.

412px-Lorius_chlorocercus-20040821.jpg

Dài 28 cm (11 in). Nó chủ yếu là màu đỏ với màu đen trên đầu và cánh màu xanh lá cây, có một dãi lông vàng ngang trên ngực, một miếng vá có hình lưỡi liềm màu đen ở hai bên cổ. Lông đùi có màu xanh và chân tối màu xám. Nó có mỏ đỏ cam, vòng mắt màu tối.

400px-Yellow-bibbed-Lory-lorius-chlorocercus.jpg
400px-Yellow-bibbed-Lory03.jpg

800px-Lorius_chlorocercus-20040821B.jpg



5. Lorius domicella - tên tiếng Anh: Purple-naped Lory.​

Nó là loại đặc hữu ở các đảo Seram, Ambon và có lẽ cũng được phân bố ở Haruku và Saparua, nam Indonesia. Nó được coi là dễ bị tổn thương, mối đe dọa chính là từ bẫy cho việc buôn bán chim lồng.​


800px-Lorius_domicella_-Banda_Islands_-Indonesia_-upper_body-8.jpg


Dài 28 cm (11 in). Nó chủ yếu là màu đỏ từ đầu tới đuôi chuyển dần sang màu đỏ tối trong khi phía đầu đỏ chói. Đỉnh đầu của nó là đen, có đuôi kéo dài về phía mặt sau của cổ là màu tím hoa cà, có cánh màu xanh lá cây, bắp đùi màu xanh, trên ngực có mảnh ngang màu vàng, mỏ màu da cam, vòng mẳt màu xám tối, và móng mắt màu da cam đỏ.​


800px-Lorius_domicella_-Artis_Zoo_-Netherlands-8a.jpg

Con non có một mỏ nâu, vòng mắt màu trắng xám, móng mắt nâu, trên ngực mảng màu vàng khá lớn, và phong phú hơn nhiều mảng màu tím trên mặt sau của cổ.​


6. Lorius garrulus - Tên tiếng Anh: Chattering Lory​


Là loài đặc hữu của Bắc Maluku, Indonesia.
Nó được coi là dễ bị tổn thương, mối đe dọa chính là từ bẫy cho việc buôn bán chim lồng.


437px-Lorius_garrulus-20070107.jpg
450px-Chattering_Lory_%28Lorius_garrulus%293.jpg





Trong loài này, còn có 3 phân loài. Đó là:
  • Lorius garrulus flavopalliatus <SMALL>Salvadori 1877</SMALL> - Yellow-backed Lory
  • Lorius garrulus garrulus (Linnaeus) 1758
  • Lorius garrulus morotaianus <SMALL>(Bemmel) 1940</SMALL>​



621px-Yellow-backed_Lorikeet_%28Lorius_garrulus%29_-Kuala_Lumpur_Bird_Park2a.jpg


Yellow-backed Lory





Kích cỡ dài chừng 30 cm (12 in). Nó chủ yếu là màu đỏ, vòng mắt là màu xám và móng mắt màu cam/đỏ. Cánh chủ yếu là màu xanh lá cây nhưng ở vai cánh có điểm màu vàng. Bắp đùi là màu xanh lá cây. Đuôi nhìn từ bên trên có màu xanh lá cây thẩm. Nó có đôi chân màu xám đen tối. Chúng có thể hoặc không có một mảng vàng trên lưng tùy thuộc vào từng phân loài.​


 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
V. Chi Phigys
Trong chi này chỉ có một loài duy nhất (đôi khi chúng được coi là một loài trong chi Vini), đó là loài Phigys solitarius - tên tiếng Anh là:Lory Collared. Các tên khác là Fiji-Lory, Ruffled-Lory, hay Solitary Lory.


748px-Collared_Lories_taveuni_june2008.JPG


Đây là loài đặc hữu của các đảo thuộc Fiji và cũng có thể được tìm thấy ở đô thị Suva.


600px-Phigys_solitarius_-back_-San_Diego_Zoo-8a-2c.jpg



Chúng có kích cỡ khoảng 20 cm (8 in), bụng màu đỏ tươi, từ đường ngang qua mắt trở lên đỉnh đầu là một vương miện màu xanh tím, gá́y bao gồm màu xanh lá cây và màu đỏ với một số các lông ở gá́y được kéo dài. Cánh, lưng và đuôi có màu xanh lục, bụng dưới có màu tím, chân màu hồng cam, mống mắt là màu da cam-màu đỏ. Con mài có màu sắc giống như con đực nhưng phần đầu có màu xanh tím biểu thị nhạt hơn và có ánh xanh của phần lông phía sau gáy. Con non chưa trưởng thành có màu sắc mơ hồ của phần màu của bụng dưới, đó là những vằn ngang trên phần bụng và ngực, mỏ nâu và mống mắt màu nâu nhạt.


800px-Phigys_solitarius_-San_Diego_Zoo_-8.jpg


Môi trường sống của chúng là cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp. Đặc biệt trông mồi trường có nhiều loại cây họ Drala và cây họ dừa. Chúng thích nghi với nơi con người sinh sống và vì thế có thể được tìm thấy ở Suva. Các hóa thạch tại Tonga là bằng chứng cho thấy rằng, chúng đã có lần ở đó và đã được xem là vùng đất mà con người định cư sớm.


800px-Phigys_solitarius_-San_Diego_Zoo_-food_bowl-8a.jpg


Các chế độ ăn uống của Lory Collared bao gồm trái cây, hạt giống, mật hoa và hoa.

Tổ là một hố rỗng trong thân cây, đôi khi ổ có trong một một cây dừa đã mục nát. Trong môi trường nuối nhốt, một cặp chỉ đẻ được 2 quả trứng. Ấp khoảng 30 ngày, chim con nòn trong ổ kéo dài khoảng 9 tuần.

Lory Collared được nuôi và trưng bày tại London và vườn thú Taronga trong những năm 1940. Chúng là loài đã trở nên thuần hóa dễ dàng trong điều kiện nuôi nhốt, nhưng để giữ cho loài chim này còn sống đã chứng minh đó là điều rất khó khăn.
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
VI. Chi Vini:

Chi Vini bao gồm các giống có xuất xứ từ vùng nhiệt đới Thái Bình Dương. Hiện chỉ còn sinh tồn 5 loài, hai loài khác bị diệt chủng hoàn toàn. Điều đặc biệt các loài ở chi này có bộ lông màu rất sáng.

Vini được đánh giá cao bị con người đe dọa bởi những thay đổi về kiến trúc qui hoạch khu dân cư làm giảm hẹp mội trường sống tự nhiên của chúng. Ngoài hai loài đã được biết là đã bị tuyệt chủng, hai loài khác được liệt kê bị đe đọa và hai loài tiếp theo được kê là loài dễ tổn thương của tổ chức IUCN.
1. Vini australis - tiếng Anh Blue-crowned Lorikeet. Ngoài ra, chúng còn gọi là: Blue-crowned Lory, Blue-crested Lory, Solomon Lory, Samoa Lory, Segavao (ở Samoa) và Henga (ở Tonga).


600px-Vini_australis_-two_on_a_perch-8a-4c.jpg


Chúng được tìm thấy trong suốt Samoa và hải đảo Tonga và quần đảo Lau, bao gồm Alofi, Fotuhaa, Fulago, Futuna, Haafeve, Niuafoou, Moce, Niue, Ofu, Olosega, Samoa, Savaii, Tafahi, Tau, Tofua, Tonga,Tungua, Uiha, Upolu, Varoa, Vavau và Voleva.


800px-Vini_australis_-London_Zoo%2C_England-8a.jpg

Với kích cỡ chừng 19 cm với một họng đỏ, vương miện màu xanh, và bụng vá với hai màu đỏ ở trên cùng và tím ở dưới cùng.


800px-Vini_australis_-two_captive-8a.jpg


Chúng vẫn còn phổ biến, nhưng giảm trên một số hòn đảo, dường như chúng chính là thức ăn của chuột. Chúng thường xuyên lui tới những khu vực có cây có hoa, bao gồm các đồn điền trồng dừa và vườn hoa. Thường tập trung thành từng đàn ít hơn khoảng 15 con hay theo từng cặp trong mùa sinh sản. Thức ăn là mật hoa, phấn hoa, và trái cây mềm.

Làm tổ trong các lỗ trên cây nhưng cũng có thể làm hang trong các mạch ngầm hay các mô trên mặt đất.



2. Vini kuhlii - Tiếng Anh: Rimatara Lorikeet hay còn gọi là Kuhl's Lorikeet, hay Kura.


Side-view-of-an-adult-Rimatara-lorikeet-.jpg


Đây là một trong một vài loài Vini lorikeets có xuất xứ từ các đảo khác nhau, qua Nam Thái Bình Dương. Chúng là một loài vẹt bay rất nhanh với bộ lông rực rỡ: màu xanh ở lưng, cánh và vương miện (phần đỉnh đầu), gáy và bắp chân màu xanh tím, chân vàng và màu đỏ dưới bụng và má.


600px-Vini_kuhlii_-painting_by_Edward_Lear-4c.jpg


Môi trường sống tự nhiên là vùng đất thấp rừng nhiệt đới ẩm. Giống như tất cả Vini lorikeets nó cấu tạo lưỡi đặc biệt để hấp thu được các mật hoa. Trong hòn đảo trọc của khu rừng nguyên sinh và cây dừa bao phủ rộng thì nó chính là "hàng độc quyền" tại những khu vực đó.


RimitaraLorikeet.jpg



Các nghiên cứu về hóa thạch đã cho thấy rằng một khi đã có một phân bố rộng rãi từ các quần đảo Cook, phạm vi của nó giảm rất nhiều sau khi có mặt con người, cho đến nay, chúng là dân số tự nhiên còn sống sót duy nhất là trên Rimatara trong quần đảo Tubuai.

Giống như nhiều loài hải đảo của Lorikeet, chúng bị đe dọa bởi loài chuột đen. Bộ lông đầy màu sắc của chúng cũng có nghĩa là các loài thường xuyên bị săn bắt. Loài chim bản xứ này cuối cùng đã được bảo vệ bởi một văn bản (có tên là Tapu hoặc điều cấm kỵ) của Nữ hoàng Rimatara vào năm 1900. Năm 2007, nhằm bảo vệ loài chim này, tổ chức Birdlife International và nhiều cơ quan bảo tồn khác đã khống chế và tiêu diệt "sự phát triển khó kiểm soát của giống chuột đen" tại quần đảo Cook. Trong năm 2008, dân số đàn chim này đã được tái tạo. Chúng là loài được bảo tồn nguy cấp của tổ chức IUCN cấp 3.1.


 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
3. Vini stepheni - Tiếng Anh là Henderson Lorikeet hay còn được gọi là Stephen's Lory.

1366.gif
Resized%20Henderson%20Lorikeet%20(Michael%20Brooke)_tcm9-243973.jpg


Nó là loài đặc hữu của Pitcairn. Môi trường sống tự nhiên là cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp. Là loài bị đe dọa so mất môi trường sống và là loài dễ bị tổn thương theo tổ chức IUCN cấp độ 3.1 năm 2007.


4. Vini peruviana - Tiếng Anh là: Blue Lorikeet hay Tahitian Lory

Là một giống chim nhỏ có gốc từ Polynesia và quần đảo Cook. Nó có rất nhiều tên, chẳng hạn như Tahiti Lorikieet , Tahitian Lory , Blue Lory , Nunbird , Indigo Lory và Violet Lorikeet. Nó được tìm thấy trên trước đây là 23 hòn đảo xung quanh Tahiti, nhưng bây giờ bị giới hạn có thể tồn tại trên tám hòn đảo: Motu, Manuae, Tikehau, Rangiroa, Aratua, Kaukura, Apataki, Aitutaki, và có thể đảo và Manihi Harvey.


Vini_peruviana_-captive-8a.jpg


Dài 18 cm với một cái đuôi tròn ngắn. Bộ lông của nó là chủ yếu là màu xanh đậm và nó có một vùng trắng trên ngực trên, cổ họng và mặt dưới của nó. Vệt lông trên đỉnh đầu của nó cho thấy vệt ánh sáng màu xanh lam, mỏ màu cam và mống mắt có màu vàng-nâu, đôi chân màu da cam. Trống và mái có hình dáng bên ngoài giống hệt nhau. Con non chưa trưởng thành thiếu của bộ lông màu trắng và có một khuôn mặt xám xanh đậm, mống mắt nâu tối, chân màu cam nâu.


IMG_6453.jpg


Violet Lorikeets phụ thuộc vào cây cọ dừa làm tổ và một số thức ăn của nó, và sẽ thường xuyên đến các khu vực canh tác. Chúng cũng ngủ trên cây cọ, tăng sự hoạt động lúc bình minh, kêu la và đi tìm thức ăn cho các con non nhỏ hơn. Chúng tập hợp theo từng bầy nhỏ dưới mười con. Chúng là loài chim hoạt động, ăn mật hoa, côn trùng và thức ăn thô xanh mặt đất.


00000019577.jpg


Chúng là loài có nguy cơ tuyệt chủng chủ yếu bị loài xâm hại như mèo, chuột và muỗi với các bệnh sốt rét gia cầm. Do vậy chúng là loài dễ bị tổn thương (UICN cấp 3.1).


5. Vini ultramarina - Tiếng Anh: Ultramarine Lorikeet hay Ultramarine Lory

Chúng cũng được biết qua các tên: Lori Ultramarin hay Lori Ultramar, là loài đặc hữu của quần đảo Marqueses.


ultramar.jpg

SuperStock_1526-2079.jpg


Môi trường sống tự nhiên là cận nhiệt đới, nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp hay nhiệt đới ẩm cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa chủ yếu do chuột đen và cũng bởi nạn phá rừng. Là loài bảo vệ nguy cấp (IUCN 3.1).

lori.ultramarin.jgke.0g.jpg






 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
6. Vini sinotoi (*) - tên tiếng Anh Sinoto's Lorikeet

Loài này đã bị tuyệt chủng 700-1.300 năm trước đây. Nó đã được xác định từ các hóa thạch trên đảo Marquesas bởi nhà nhân chủng học Yosihiko H. Sinoto và những người thu thập các mẫu xương vào năm 1965.

7. Vini vidivici (*) - Tên tiếng Anh : Conquered Lorikeet

Loài này cũng đã bị tuyệt chủng khoảng 700-1.300 năm trước đây. Nó là một phát hiện lâu đời nhất lớp 1000 AD mà không được ghi lại cho đến năm 1200. Nó được đặt tên bởi David Steadman. Nó là một loài lớn trong chi Vini, với phạm vi phân bố của nó từ đảo Cook và quần đảo Marquesas.

(*) Trích dẫn từ: David W. Steadman & Marie C. Zarriello, (1987) "Hai mới loài vẹt (Aves: Psittacidae) từ các trang web khảo cổ tại quần đảo Marquesas" Kỷ yếu của Hội sinh học của Washington 100: 518-528
Phần tiếng Anh gốc phần trích dẫn 2 loài vẹt trong chi Vini đã tuyệt chủng:
David W. Steadman & Marie C. Zarriello, (1987) "Two new species of parrots (Aves: Psittacidae) from archeological sites in the Marquesas Islands" Proceedings of the Biological Society of Washington 100 : 518-528







 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
VII. Chi Glossopsitta

Chi Glossopsitta có nguồn gốc Australia và các giống két Lorikeet nhỏ hơn có nguồn gốc ở Tasmania mặc dù nó không phổ biến ở đó. Trong chi này có ba loài và hai phân loài. Cụ thể sau đây:
1. Glossopsitta concinna - Tiếng Anh là: Musk Lorikeet


Lần đầu tiên được mô tả bởi nhà nghiên cứu chim George Shaw trong năm 1790. John Latham mô tả nó trong từ Latin concinna có nghĩa là "tao nhã", vì thế, chúng còn có một số tên khác như Red-eared LorikeetGreen Keet, tại địa phương của chúng là Úc, người Sydney gọi nó theo tiếng địa phương là Coolich. Chúngđược tìm thấy ở phía đông New South Wales, Victoria, Nam Úc và Tasmania.



400px-Musk_Lorikeet_jul08.jpg
460px-Glossopsitta_concinna_on_Acacia_dealbata.jpg



Với kích cỡ chừng 22 cm (8,5 in). Lông chủ yếu là màu xanh lá cây và chúng được xác định bởi trán và má màu lông đỏ, đỉnh đầu màu xanh và một dãi màu vàng trên cánh của chúng. Các con mái được xác định bởi mảng màu màu xanh trên đỉnh đầu nhỏ hơn và nhạt hơn con trống.​


Còn 2 phân loài được phân loại nằm trong loài này là:
  • Glossopsitta concinna concinna <SMALL>(Shaw 1791)</SMALL>​
  • Glossopsitta concinna didimus (<SMALL>Mathews 1915)</SMALL>​
2. Glossopsitta pusilla - Tên tiếng Anh Little Lorikeet


Là loài đặc hữu của Australia. Lần đầu tiên, chúng được mô tả bởi nhà nghiên cứu chim George Shaw trong năm 1790. John Latham mô tả nó trong từ Latin pusilla có nghĩa là "nhỏ". Chúng còn có một số tên gọi khác như Tiny Lorikeet, Red-faced Lorikeet, Gizzie, Slit, tiếng địa phương gọi chúng là Jerryang.




575px-Little_Lorikeet_kobble.JPG




Môi trường sống tự nhiên của chúng là cận nhiệt đới hay rừng nhiệt đới khô, cận nhiệt đới hay rừng ẩm vùng đất thấp.​


little.jpg


Dài 15 cm (6 inch), trống và mái giống nhau về màu sắc, thường con mái có màu tối hơn. Phần đỉnh đầu, má trước và cổ họng có lông màu đỏ, gá́y và vai màu đồng và phần còn lại của bộ lông màu xanh lá cây, bụng màu xanh có nhuốm màu vàng. Trái cây và hoa với số lượng lớn là chế độ ăn uống của chúng.​



Z-JR-littlelorikeet.jpg


Mặc dù lần đầu tiên xuất khẩu sang châu Âu vào năm 1877, chúng rất hiếm khi thấy ở ngoài nước Úc. Ngay cả tại quốc gia bản địa của nó, chúng không phổ biến trong điều kiện nuôi nhốt. Chúng có tiếng là loài rất khó để nuôi lồng.​


3. Glossopsitta porphyrocephala - Tên tiếng Anh: Purple-crowned Lorikeet.​

Chúng được tìm thấy ở phía tây nam Tây Úc, và ở miền nam Nam Úc, phía đông từ phía nam bán đảo Eyre, thông qua dãy Gawler và Flinders Ranges và trên toàn miền nam Victoria đến East Gippsland. Nó cũng được tìm thấy trên đảo Kangaroo. Chúng thường được thấy trong rừng khô, đặc biệt là nơi có cây bạch đàn đang trổ hoa.​


400px-Purple-crowned_Lorikeet_%28Glossopsitta_porphyrocephala%29_-pair_-nesting_box-2p.jpg


Lần đầu tiên, chúng được mô tả bởi Lionel Dietrichsen trong năm 1837. Từ "porphuros " trong tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là "màu tím", vì vậy chúng còn có tên gọi khác là Porphyry-crowned lorikeet, Dietrichsen's Lory và Zit Parrot.​


Purple-crowned%20Lorikeets%20(Glossopsitta%20porphyrocephala)%202%20-%20Melb%20Zoo,%20VIC.jpg


Đo khoảng 15 cm (6 inch), đỉnh đầu có màu tím sẫm, trán và tai-lông có màu vàng cam và màu cam nổi bật nhất là vùng lông phía trên mỏ. Phần bụng dưới là màu xanh lá cây, cằm, ngực và bụng là một loại màu xanh dễ thấy, trong khi bắp đùi và lông dưới đuôi có màu vàng-xanh, đuôi có một số màu sắc xanh đỏ cam, màu đỏ thẫm dưới cánh có thể nhìn thấy khi chim đang bay. Mỏ nhỏ màu đen, mống mắt nâu và bàn chân màu xám. Mống mắt chim mái sậm màu hơn, lông tai nhạt màu hơn. Con non không có đỉnh đầu màu tím​
 

trung_apolo

"mỗi ngày một niềm vui"
Thành viên BQT
Tham gia
25/7/09
Bài viết
860
Điểm tương tác
86
SVC$
0
VIII. Chi Charmosyna

Chi Charmosyna chứa tổng cộng 14 loài. Được mô tả dưới đây:

1. Charmosyna palmarum - Tên tiếng Anh: Lorikeet Palm, Lori Des Palmiers, hoặc Lori Palmero.

Được được tìm thấy tại Quần đảo Solomon và Vanuatu trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp hoặc nhiệt đới ẩm cận nhiệt đới. Nó là loài bị đe dọa do mất môi trường sống, được tổ chức IUCN đánh giá là loại dễ bị tổn thương.

Loro.jpg


2. Charmosyna rubrigularis - Tên tiếng Anh:Red-chinned Lorikeet
(Charmosyna%20rubrigularis).jpg

Là loài đặc hữu của New Papua Guinea, trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp hoặc nhiệt đới ẩm cận nhiệt đới.

3. Charmosyna meeki - Tên tiếng Anh: Meek's Lorikeet

(Charmosyna%20meeki).jpg


Được được tìm thấy tại Quần đảo Solomon và New Papua Guinea trong môi trường cận nhiệt đới hay nhiệt đới ẩm vùng rừng đất thấp hoặc nhiệt đới ẩm cận nhiệt đới. Nó là loài bị đe dọa do mất môi trường sống, được tổ chức IUCN đánh giá là loại sắp bị đe dọa.


4. Charmosyna toxopei - Tên tiếng Anh: Blue-fronted Lorikeet, Lorikeet Buru

Là loài đặc hữu của Buru, Indonesia. Từ năm 1930 trong rừng đồi cao giữa 850-1.000 m cho đến hiện nay chỉ thu được 7 mẫu vật. Được mô tả là dài 16 cm, màu xanh lá cây với đỉnh đầu màu xanh, dưới cánh có những đường ngang màu vàng và trên đuôi có vạch màu đỏ. tổ chức IUCN đánh giá là loại cực kỳ nguy cấp (cấp độ 2.3)​
 

Chủ đề được đánh giá cao

Bên trên Bottom