Guest viewing is limited

phoenix108

"năm châu kết bằng hữu"
Tham gia
18/3/08
Bài viết
523
Điểm tương tác
34
SVC$
0
1. Chính Kinh

Giống dân Việt khởi đầu từ khi một bà Tiên và một ông Rồng phối hiệp nhau, và bà Tiên sinh ra cái bọc chứa một trăm người con.

Sau đó ông Rồng nói với bà Tiên: “Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên, nên nàng đem năm mươi con lên núi, ta đem năm mươi con xuống biển. Khi cần thì gọi, ta về ngay.”

Từ đó dòng giống Việt ngày một phát triển.

* * * *

DIỄN KINH

2. DẪN NHẬP

2.1 Nhìn Chung

a. Tiên được quan niệm là người sống ở núi, hiền từ, thánh thoát, sống mãi không chết… Nghe nói tới Tiên, nghe ca tụng Tiên, nhưng chưa ai thực sự gặp một bà Tiên. Không biết có Tiên thực hay không.

Giống Rồng cũng vậy. Rồng được coi là chủ tể của biển cả, làm gió làm mưa, thiên biến vạn hóa… Nhưng cũng chưa ai gặp Rồng. Nghe nói tới Rồng, thấy hình vẽ Rồng cũng nhiều, đủ loại đủ kiểu… Nhưng không ai dám quả quyết là có giống Rồng hay không.

*

b. Vậy mà nguồn gốc một giống người, người Tộc Việt, lại được lưu truyền là do sự phối hiệp giữa một bà Tiên và một ông Rồng.

Nếu Tiên và Rồng giống như hình ảnh long và phụng hiện nay, thì chuyện kết hiệp thực là trái khuấy. Việc truyền sinh càng vô lý hơn.

Lại nữa, Mẹ Tiên thêm lạ kỳ, mẹ không sinh sản một cách bình thường, mà sinh ra cái bọc chứa một trăm đứa con. Mẹ là chim hay là cá? Nhưng sao lại sinh ra những Con Người?

Và rồi, không biết vì sao mà một hôm cha Rồng bỗng lý luận về nguồn gốc của mình để đòi chia tay và chia con. Năm mươi con theo mẹ Tiên về quê ngoại trên núi, năm mươi con theo cha Rồng về biển cả vẫy vùng.

Ðã đòi chia tay và chia con, vậy mà cha Rồng lại nói thêm: Khi cần thì gọi, ta về ngay. Tưởng rằng tình nghĩa đã dứt, lưu luyến không còn, mà sao vẫn hẹn hò? Vậy thì chia làm gì? Ðã chia nhau kẻ lên núi, người xuống biển, thì sao còn gọi nhau được? Mà nếu có gọi, làm sao có thể về được ngay? Không lý thời đó đã có hệ thống viễn liên, phương tiện phản lực?… (*1)

* *

2.2 Nhận Ðịnh

a. Xét theo thông thường, truyền thuyết về nguồn gốc của dân Việt như vậy là gồm toàn những chuyện lạ lùng khó tin.

Thực khó tin chuyện có Tiên, có Rồng. Thực vô lý khi hai loài hoàn toàn khác biệt nhau, như Tiên và Rồng, lại lấy nhau và sinh được con cái. Tin làm sao được chuyện sinh cái bọc chứa một trăm con người.

Nguồn gốc đã dị kỳ, tình tiết lại càng quái lạ. Tại sao khi dạy về nguồn gốc dân tộc, Tổ Tiên ta lại nói tới việc chia tay và chia con? Không lý Tổ Tiên muốn nêu gương vợ chồng không nên sống đời ở kiếp với nhau?

Khi đã chia tay chia con, thì sao cha Rồng lại thêm: hễ gọi thì về ngay? Truyền thuyết thêm chi tiết đó để làm gì? Tại sao phải chia con, và tại sao phải chia đồng đều?

Nhưng điều đáng kinh ngạc hơn, là tại sao các tình tiết kỳ dị đó, chẳng những đã không được sửa đổi, mà còn được truyền tụng phổ cập trong toàn dân, và được trang trọng truyền miệng từ đời này qua đời khác, trải hơn năm sáu ngàn năm? Truyền dạy nhau như vậy để làm gì?

*

b. Nếu chỉ để dạy những chuyện khó tin như bà Tiên ông Rồng, nếu chỉ để kể những chuyện vô lý như Tiên Rồng sinh ra bọc chứa một trăm con người, nếu chỉ nêu những gương không đẹp như ly dị, chia con… thì không lý do nào Tổ Tiên ta lại phải cố công phổ biến cho mọi người, và truyền miệng ghi nhớ ròng rã suốt hai ba trăm đời không dứt.

Chắc chắn những tình tiết có vẽ kỳ quặc đó phải chứa đựng những ẩn ý khác thường và quan trọng đặc biệt, thì Tổ Tiên mới dụng tâm lưu truyền nguyên vẹn như thế. Vấn đề là chúng ta có thấu hiểu nổi hay không.

Do đó, chúng ta không thể nghe và hiểu loại chuyện này một cách bình thường. Bổn phận của chúng ta là khám phá và khai thác cái gia tài quý báu đang tiềm ẩn trong đó. Nếu không, thực uổng công Tổ Tiên mấy trăm đời đã liên tục trao truyền đến chúng ta.
3. NHẬN DIỆN CON NGƯỜI

3.1 Biểu Tượng về Con Người

a. Có lẽ chúng ta quá câu nệ và duy vật, khi cương quyết đòi hỏi Tiên và Rồng của truyền thuyết phải là những sinh vật có thực và có thể cùng nhau truyền sinh.

Trong cuộc sống thường ngày, dầu luôn miệng nhắc tới Tiên, nhưng có bao giờ ta cảm thấy cần phải gặp mặt, hoặc tìm hiểu đích xác về một nàng Tiên? Chúng ta sẳn sàng hiểu chữ Tiên với nhiều nghĩa bóng bảy tốt đẹp, mà không cần thực tại của Tiên.

Ta cũng thường nhắc tới Rồng với nhiều đức tính đặc thù. Nhưng không ai màng tới việc tìm cho ra một con Rồng thực.

*

b. Vậy thì, khi kể chuyện Tiên Rồng, tổ Tiên không buộc ta phải tin như đó là hai sinh vật có thực. Tiên và Rồng chỉ là hai biểu tượng: Biểu Tượng Tiên và Biểu Tượng Rồng.

Tiên là biểu tượng, vì hễ nói tới Tiên, chúng ta nghĩ ngay tới hình ảnh của xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan ái, yêu thương… mà cũng thoát tục, siêu phàm, như thần như thánh, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian vượt không gian.

Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, cho sức mạnh vô song, sức sống vô tận, biến hóa không lường, như linh như hiển… khi thì ẩn mình dưới đáy biển cả, lúc lại vẫy vùng trên tầng trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phước (*2).

*

c. Như vậy, khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, Tổ Tiên diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người.

Khi nói chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, Tổ Tiên muốn diễn tả Con Người là một hiệp thể sinh động, là kết tinh hoàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai Biểu Tượng Tiên và Rồng.

Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa là Con Người vừa biến hóa như Rồng vừa trường cửu như Tiên, vừa vật thể vừa siêu phàm, vừa trong thời không vừa vượt thời không, vừa linh động vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương lại vừa uy lực vô song.

*

d. Lại nữa, vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Kinh nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người Việt, thì cũng có nghĩa là không loại trừ bất cứ con người nào.

Tổ Tiên nhấn mạnh rằng đây là biểu tượng của Con Người, tức là của toàn thể mọi người, không trừ ai (*3).

* *

3.2 Tiên Rồng Song Hiệp

a. Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người, mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới tỷ lệ giữa những đặc tính đó.

Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc biệt trong Con Người: một nửa do Mẹ, một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng.

Như vậy, Con Người là một hiêp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đốị Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp (*4).

*

Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Tiên Rồng Song Hiệp bàng bạc khắp nơi, trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người.

Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người, và Cuộc Sống Con Người.

Ta có thể gọi là nguyên lý. Nguyên lý TIÊN RỒNG SONG HIỆP (*5).

*

b. Lại nữa, khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng về biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người.

Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất, bất khả phân. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi.

Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi môi trường thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi (*6).

*

c. Ngoài ra, việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng lại là một nhận định đích xác về cuộc sống con người.

Tuy Con Người là thể hiệp toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ hiện rõ rệt, trong khi một số đặc tính có thể như thiếu vắng.

Dầu vậy, lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngaỵ Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện,và vẫn luôn luôn hiện hữu trong Con Ngườị Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó (*7).

Nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn.
4. NỀN TẢNG XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

4.1 Ðặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh

a. Cùng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, Kinh Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người.

Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa.

Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau tức là cộng đoàn, hay xã hội.

Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Ðã không hề có một Con Người đơn độc. Hể có Con Người là có cộng đoàn (*8).

Ðây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con: Văn hóa Việt xác quyết Ðặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người.

*

b. Như thế, với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, Kinh Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, Kinh xác quyết đặc tính xã hội của mọi Con Người.

Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi Kinh Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt.

Ðây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo ra một nền văn hóa đặc thù.

* *

4.2 Hai Nguyên Lý Xã Hội

a. Như vậy, với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều do cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần.

Xác quyết nầy khác biệt với nền tảng của nhiều nền văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân (*9).

Ðang khi đó văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một xã hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng.

*

b. Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa Con Người với Con Người bằng hình ảnh: ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần, trong một cái bọc.

Tự nguồn gốc, giữa Con Người không thể có bắt cứ một dị biệt nào: chẳng những không di biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không bị dị biệt cả về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hòan tòan như nhau, hoàn toàn bằng nhau.

Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng: con người bình đẳng tự căn nguyên, BÌNH ĐẲNG TỘT CÙNG.

*

c. Ngoài ra có xã hội nào thân thương bằng những anh chị em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha?

Tuy vậy, anh chị em ruột cũng ít khi thương yêu nhau đồng đềụ Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó, khi nhấn mạnh rằng mọi người còn được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong sự yêu thương nhau.

Trong biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương yêu nhaụ sự khắng khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đềụ Họ thương nhau tận tình.

Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhaụ Vì vậy, tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng tạ Ðây là tình THÂN THƯƠNG TỘT CÙNG.

Sự diễn đạt của Tổ Tiên thực tuyệt diệu!

*

d. Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Ðảng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng (*10).

Ðể đưa vào hiện thực, để nền tảng xã hội được thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống, Tổ Tiên ta đã khai triển chi tiết và thực tiễn ở Kinh Chữ Ðồng và Kinh Trầu Cau.

* * * *

5. TIÊN RỒNG SONG HIỆP TRONG VĂN HÓA VIỆT

5.1 Tính Cách Phổ Quát

a. Phần này, ở đây cũng như ở các Kinh khác, đòi hỏi công trình khảo cứu sâu rộng vào tận nếp sống thường ngày của đại chúng. Ở đây, chỉ nêu vài nét đại cương với những điểm đặc trưng.

Cần nhấn mạnh đến việc thực sự tìm hiểu thấu đáo ở cuộc sống, phong tục, tâm tư… của đại đa số dân chúng, chứ không chỉ lặp lại những sáo ngữ, những luận điều sẵn có trong sách vở, hoặc uốn nắn theo thành kiến, giáo điều.

*

b. Trong suốt mấy ngàn năm, dòng giống Việt, đặc biệt dân tộc Việt Nam, đã sống một nếp sống thể hiện toàn diện nền tảng Tiên Rồng Song Hiệp.

Tuy có những thời suy thoái, nhưng đã có nhiều giai đoạn dân tộc Việt sống đúng di huấn của Tổ Tiên, đặt nền tảng trên Kinh Tiên Rồng. Nhờ đó, dân Việt đã phát huy được một nền văn hóa đặc thù, với nhiều nét đặc trưng.

Lịch sử chứng minh rằng: thời kỳ nào sống đúng Văn Hóa tiên Rồng, thời kỳ đó dân Việt được sống trọn vẹn Con Người nhất, được hạnh phúc nhất, và đất nước được thịnh vượng hùng cường nhất.

Ở những giai đoạn đó của lịch sử và văn hóa Việt, trong mọi khía cạnh của Cuộc Sống Con Người, từ cá nhân đến gia đình, làng xóm, dân nước, qua chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, quân sự … nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp luôn được ứng dụng triệt để. Nhờ đó, văn hóa Việt luôn kết hợp thành công những yếu tố nhiều khi như đối nghịch.

* *

5.2 Mỗi Người luôn cố gắng sống thực trọn vẹn Con Người Tiên Rồng. Mọi người thể hiện cuộc sống vừa thể chất vừa tinh thần, vừa tình vừa lý, vừa trí vừa nhân, vừa dũng cảm vừa hiền hòa, vừa lo ăn mặc vừa để thảnh thơi, vừa cho hiện tại vừa cho tương lai, vừa cho cá nhân vừa cho tập thể … năm mươi theo mẹ năm mươi theo cha, song hiệp hoàn chỉnh.

* *

5.3 Gia Ðình là nền tảng sống thực và pháp triển toàn diện Cuộc Sống Con Người, mà cũng vừa là đơn vị cấu thành dân nước. Trong gia đình, vợ chồng sống vừa tình vừa nghĩa, vừa yêu thương vừa kính trọng, vừa thể xác vừa tinh thần, năm mươi Tiên năm mươi Rồng.

Vợ chồng luôn bình đẳng, cả khi cúng tế… Không có cảnh chồng chúa vợ tôi như văn hóa Hoa . Luôn theo tiêu chuẩn thuận vợ thuận chồng… Thích con trai mà thương con gáị Vô nam dụng nữ… có vợ chồng mà cũng có thân tộc. Có gia đình mà cũng có làng nước.

* *

5.4 Xã Hội có trên có dưới mà không có thống trị. Nay là dân, mai là quan, mốt lại là dân . Có khác biệt mà không có ngăn cách. Có nhân tước mà cũng có thiên tước. có giầu nghèo mà không có chế độ nô lệ.

Có pháp lý mà cũng có tình nghĩa… Bảo bọc che chở, đầy tình đủ lý… Có tập thể mà cũng có cá nhân. Có ta mà cũng có người. Có gần mà cũng có xa. Có nước mà cũng có nhà.

* *

5.5 Chính Trị. Có thể chế đặc thù gồm cả làng cả nước, nên vừa có vua quan mà cũng vừa có nếp sống dân chủ. Chăn dắt dân mà cũng tùy thuộc dân. Có lãnh đạo mà không có thống trị. Có triều đại mà không có giai cấp đặc quyền.

Có mưu lược mà cũng có đạo lý. Có uy nước mà cũng có tình dân. Có tài mà cũng có đức… Với người tại thế mà cũng với người khuất mặt.

* *

5.6 Kinh Tế. Mục tiêu chính là phát triển, để tất cả mọi người cùng được hưởng cơm no áo ấm và tăng trưởng trọn vẹn.

Có cần kiệm mà cũng có thảnh thơi. Muốn tiền của mà cũng chẳng sợ nghèo. Không chịu thiếu mà cũng chẳng chịu thừa.

Sự bình sản dựa trên cộng tác tương thân và cơ chế thích đáng, chớ không dựa trên đấu tranh hay bức chế. Theo chế độ rút thăm chia đất định kỳ, để vừa hữu sản mà cũng vừa vô sản. Không để kinh tế làm lũng đoạn Cuộc Sống Con Người, và gây nguy hại cho xã hội, cho làng nước.

* *

5.7 Quốc Phòng, Quân Sự. Giữ nước là việc của toàn dân. Làng xã vừa là đơn vị xã hội, vừa là đơn vị chiến đấu. Vừa là lũy tre làng vừa là thành trì chống giặc. Để giữ nước mà cũng để giữ nhà.

Có quân sĩ mà cũng có toàn dân. Đang là dân mà cũng đang là quân… Có võ mà cũng có văn. Có tài mà cũng có đức.

Vừa du kích mà cũng vừa diện địa. Vừa uy lực mà cũng vừa mưu lược. Vừa đánh giặc mà cũng lo cứu người.

* *

5.8 Niềm Tin. Sống đạo Người mà cũng sống đạo Trời. Vừa thờ Trời mà cũng vừa thờ Người. Đạo tại tâm nhưng trọng nghi lễ. Cho tập thể mà cũng cho cá nhân. Cho hiện tại mà cũng cho quá khứ vị lai… Cõi dương sao cõi âm vậy.

Lấy nếp sống truyền thống làm tiêu chuẩn hòa hợp tinh hoa các tôn giáo. Sẵn sàng đón nhận chân lý của tôn giáo, mà cũng quyết liệt gạt bỏ những thực hành không thích hợp.

* *

5.9 Tóm lại, Văn Hóa Việt đã đặt nền tảng trên Kinh Tiên Rống, trên nguyên lý Tiên Rồng Song Hiệp.

Ở những nơi và những thời xảy ra sự phối hiệp không hoàn chỉnh, hoặc thiên về bên này hay nghiêng về bên kia, đều là những giai đoạn hạnh phúc Con Người bị khiếm khuyết, như tình trạng nhân loại hiện nay.

Con đường sáng của dân tộc, cũng như của toàn thể nhân loại, là phục hưng và phát huy nền Văn Hóa Tiên Rồng của Tổ Tiên.

GHI CHÚ:

(*1) Cần chú ý đến sự khác biệt giữa câu chuyện truyền miệng và các bản văn. Về sự tích con cháu Tiên Rồng này, bản văn xưa nhất còn lưu truyền là bài Truyện Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết cách đây hơn năm trăm năm (bản dịch Lê Hữu Mục, Huế 1960, tr 43-45).

Điều đáng tiếc là bản văn này đã vì những lý do văn hóa đã vì những lý do văn hóa thời cuộc, nên chắp nối nhiều điểm trái ngược với nội dung lưu truyền trong đại chúng.

(*2) Đọc bài Ý Nghĩa Biểu Tượng Tiên Rồng.

(*3) Truyền thống Việt không có sự tích nào phân biệt dân Việt với các dân tộc khác.

(*4) Song vừa có nghĩa là hai (như chữ lưỡng, nhị) vừa có thêm ý niệm bằng nhau, như chữ song tòan, vô song… ở đây diễn tả 50 – 50.

Chữ hiệp chẳng những có nghĩa là đồng ý với nhau, ghép chung lại (như chữ hợp) mà còn thêm ý hòa lẫn vào nhau. Ở đây sự phối hợp để trở thành một hiệp thể tự tại tòan nhất.

(*5) Đọc bài Tiên Rồng Song Hiệp.

(*6) Nơi trên, db đọan 3.3.

(*7) Sự ẩn diện hay bộc lộ còn có thể tùy thuộc vào một số điều kiện. Em bé mới sinh chưa đủ điều kiện thể xác để bộc lộ một số khả năng. Cũng vậy, người bị hư bộ óc thì không thể bộc lộ khả năng suy tư…

(*8) Đây chỉ là biểu tượng của nhận diện, không liên quan đến khảo cứu hay bất cứ gì khác.

(*9) Có văn hóa như Hy Lạp, dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm tự cho mình là con rơi của các vị thần lọan luân dâm đãng… Văn hóa Ấn Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp di truyền.

Dân Do Thái cho rằng dòng giống họ được Tạo Hóa đặc tuyển và phải tiêu diệt mọi giống dân cản trở họ… Chủ thuyết của Quốc Xã Đức lại cho rằng dân Arya da trắng thuần chủng được đặc quyền thống trị lòai người.

(*10) Mọi người đều là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng, đều là Đồng Bào.

Khi dùng chung cho mọi người trong nước, chữ đồng bào đã luôn luôn nói lên truyền thống cao quý của văn hóa Tiên Rồng.

Chúng ta cũng có thể dùng chữ đồng bào để chỉ từng người. Tôi gọi anh là đồng bào để nhắc nhở cho nhau rằng chúng mình thực sự là anh em, do cùng Một Bọc Tiên Rồng.

Mà hễ là Con Người thì bất cứ ai cũng là đồng bào, Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng.

(*11) Mặc cảm học thức, ở mọi nơi và mọi thời, là coi trọng sách vở và giới quyền chức, mà khinh thường giới bình dân. Một câu trong một cuốn sách nào đó, một điều luật của giới cai trị… thường được lặp đi lặp lại như những bằng chứng xác thực… hơn là nếp sống thực của bao triệu người dân trước mắt.
HUẤN CA:

Khai nguyên minh triết nước ta

Tiên Rồng phối hiệp – xây gia dựng đình

Từ đây thắm đượm ân tình

Trăm con chung bọc – mẹ sinh một lần

Trọn tình trọn nghĩa ái ân

Mẹ cha xác quyết đôi phần như sau

Con người – hai nửa khác nhau

Năm mươi theo mẹ lên mau núi rừng

Nửa phần còn lại reo mừng

Theo cha xuống biển tưng bừng hoan ca

Cha Rồng lại nhắn nhủ là

“Khi cần thì gọi – có ta về liền!”

Tiên Rồng phát triển thường xuyên

Cháu con Tộc Việt khắp miền núi sông

* * * *

Tuyệt thay Chánh Thuyết Tiên Rồng

Ông Bà xây dựng cộng đồng an vui

Căn nguyên Nhận Diện Con Người

Tiên Rồng Song Hiệp – tạo đời toàn năng

Cha Rồng – biểu tượng nói rằng

Lực thân sinh động – Trí năng biến hòa

Và Tiên hiện hữu trong ta

Làm nên người thật ấy là nhân sinh

Mẹ Tiên – biểu tượng chứng minh

Tâm tình thông hiệp – Tuệ linh vĩnh tồn

Con Người – nền tảng lập ngôn

Trí-Thân-Tâm-Tuệ trường tồn là đây

Tiếp theo công cuộc dựng xây

Cộng đồng Xã Hội xum vầy như sau

Hiệp hai hoàn chỉnh nhiệm màu

Trăm Con Một Bọc cùng nhau giúp đời

Trăm người trăm việc ai ơi

Căn cơ Gia Tộc tuyệt vời là đây

Chẳng như tà thuyết phương Tây

Duy tâm, duy lợi… chứa đầy bất công

Phân ngôi định cấp cộng đồng

Ðặt ra thống trị: chủ ông – tớ đày

Của tài vơ vét hàng ngày

Bắt dân đóng góp kéo cày như trâu

Cấp trên cứ thế mà giàu

Lừa khinh cấp dưới tóm thâu lợi quyền

Nào là cai trị chính chuyên

Tự do – cũng bọn tuyên truyền hại dân

Con người đau khổ muôn phần

Biến thành con thú – ta cần xóa tan

Thay bằng xã hội thịnh an

Tiên Rồng – hồi phục dung nhan con người

Quân bình tỷ lệ: năm mươi

Số con theo mẹ bằng người theo cha

Tương đồng tuyệt đối ấy là

Hiệp hai hoàn chỉnh – làm đà phát huy

Nguyên sinh vạn vật gẫm suy

Phê bình tiến hóa – cứu nguy loài người

Kỷ nguyên cách mạng sáng ngời

Tiên Rồng Mở Hội – tiếng cười hoan ca

Núi – sông giao hữu hài hòa

Siêu linh – vật chất thăng hoa muôn đời

Lý – tình minh định tuyệt vời

Thân thương – bình đẳng bao thời khắc ghi

Nước – nhà lúc thịnh lúc suy

Hợp tan – tan hợp diệu kỳ ngàn thu

Mỗi người: sống nét đặc thù

Trong nền Phúc Ðức luyện tu hàng ngày

Tinh thần – thể chất tỏ bày

Hiền hòa – dũng cảm hăng say giúp đời

Lo ăn mặc – cũng thảnh thơi

Cá nhân – tập thể xin mời lo toan

Sống nhân – lẫn trí kiện toàn

Hợp tình – hữu lý hiền ngoan Tiên Rồng

Gia đình: thuận vợ thuận chồng

Thương yêu kính trọng – hòa đồng việc chung

Sống tình lẫn nghĩa – ung dung

Vô nam dụng nữ – cũng cùng như nhau

Vợ chồng, con cháu trước sau

Việc làng việc nước – hãy mau trau dồi

Gái trai – hiếu thảo xứng đôi

Kính thờ Quốc Tổ – nhớ nôi Tiên Rồng

Cộng đồng: trên dưới, nhưng không

Lạm quyền thống trị: chủ ông – tớ đày

Thời nào mà chẳng nghèo – giàu

Chung giàn cuộc sống bí – bàu chẳng phân

Tước thiên mà có tước nhân

Lý – tình đạo sống mười phân vẹn mười

Gia đình – gia tộc, loài người

Từ làng đến xã vui cười đoàn viên

An dân chính trị gắn liền

Vua – quan vì nhiệm khắp miền ấm no

Ðức – tài lãnh đạo chăm lo

Chẳng vì chức vị tự do lộng hành

Chớ đâu quân chủ chính chuyên

Thực ra dân chủ khắp miền lân bang

Phép vua thua với lệ làng

Chứng minh cuộc sống nhịp nhàng vì dân

Chăn dân mà lại ân cần

Ðáp ứng nguyện vọng toàn dân tỏ bày

Mưu cơ – đạo lý thẳng ngay

Quang minh chính đại – ra tay cứu đời

Sống theo văn hóa sáng ngời

Với người khuất mặt – với đời nhân sinh

Xét về kinh tế xứ mình

Thực thi bình sản dân tình an khang

Không thừa không thiếu rõ ràng

Kiệm cần liêm chính – lại càng thảnh thơi

Tấc vàng tấc đất xây đời

Mặc bền ăn chắc là lời huấn linh

Trăng thanh gạo trắng hữu tình

Tạo ra của cải là vì thân thương

Con người gắn bó quê hương

Quốc phòng quân sự khắp phương thuận hòa

Xã làng – tổ chức nước ta

Vừa làm kinh tế – vừa là chiến khu

Giữ làng giữ nước – bao thu

Toàn dân là lính diệt thù lập công

Có văn lẫn võ – hòa đồng

Giữ nhà giữ nước vợ chồng dân binh

Hỡi cô du kích chung tình

Bên anh diện địa – có mình có ta

Vừa lo giết giặc – mà là

Cứu người lương thiện – Tình Ca Ðồng Bào

Tiên Rồng – Ðạo sống tự hào

Thờ Trời mà cũng đề cao Thờ Người

Tại tâm – thể hiện vui tươi

Lễ nghi – chứng tỏ con người thiện tâm

Trên dương sống mãi như âm

Từng người – toàn thể đồng tâm giúp đời

Bao điều tôn giáo tuyệt vời

Thế nhưng chỉ nhận những lời thích nghi

Gia Tiên – Quốc Tổ khắc ghi

Tình chân thiện mỹ – không gì sánh hơn

Ngày nay nhân loại gặp cơn

Khiếm khuyết hạnh phúc – oán hờn kiếp sinh

Gây ra bao cảnh bất bình

Ðấu tranh giai cấp – đoạn tình anh em

Xin mời thế giới đến xem

Con đường nhân bản sẽ đem hiệp đồng

Ðó là Chánh Thuyết Tiên Rồng

Giúp cho nhân loại – chờ trông cứu người

Trăm Con Một Bọc tuyệt vời

Công bình bác ái sáng ngời là đây

Từ bi hỷ xã chứa đầy

Ta vâng Thánh Ý – đi xây Con Người

(Hết)
 
Chỉnh sửa lần cuối:

Chủ đề được đánh giá cao

Bên trên Bottom