Đuôi gồm 20 - 22 đốt sống đuôi. Xét theo chiều dài thì đuôi có loại dài, loại ngắn và loại ngắn nhân tạo. Chó có đuôi dài là khi đuôi của nó cụp xuống thì phần tận cùng của đuôi thấp hơn khớp gối, còn nếu khi cụp xuống mà đuôi không đạt tới khớp gối là loại chó có đuôi ngắn hoặc đuôi ngắn nhân tạo. Cắt ngắn đuôi và tai chó với chiều dài đã được tiêu chuẩn công nhận đối với những giống chó quy định nào đó. Xét về mặt hình dáng, người ta phân loại thành: đuôi thẳng, đuôi hình lưỡi câu, hình vành khuyên, hình thanh kiếm, hình lưỡi liềm và hình xoắn ốc.
Ngực và lồng ngực: Phần phía trước của lồng ngực gọi là ngực. Lồng ngực bị giới hạn bởi các bộ phận như sau: ở phía trên là bướu vai và lưng, ở phía dưới là xương ngực, ở phía trước là khoảng trống giữa vai và chỗ bắt đầu cổ họng nối với mình, ở phía sau là những xương sườn cụt. Ngực và lồng ngực được đánh giá theo chiều rộng, chiều dài, chiều sâu, thể tích và hình dáng. Lồng ngực thường có dáng phẳng, ô van cụt, hình thùng (ống). Đối với tất cả các giống chó cần phải có lồng ngực rộng, tương đối sâu và dài.
Chiều rộng của ngực được đo ở phía trước, giữa các khớp vai, chiều sâu được đo theo đường thẳng đứng (đường dây dọi) ngay phía sau của hai chân trước, tính từ bướu vai xuống đến xương ngực, đo vòng ngực bằng thước dây ngay sau chân trước (nách).
Bụng là phần có thành bụng mềm, đoạn từ xương sườn cụt đến xương chậu. Về hình dáng, bụng thường phải thon đều, béo mỡ và xệ. Đối với tất cả các giống chó cần có dáng bụng thon đều mới tốt.
Ngoại hình của chi. Chi được đánh giá theo dáng thế, vẻ, nở nang của hình dáng và độ mở của các góc khớp.
Chi ngực (chi trước) gồm: xương bả vai, vai, khuỷu (cùi chỏ), cẳng chân, cổ chân, khớp đốt bàn chân và bàn chân.
Tư thế đứng của chó được coi là đúng trong trường hợp nếu các chi được đặt thẳng đứng lên mặt đất, song song với nhau và mở ra bằng chiều rộng của ngực. Bàn chân có hình vòm, các ngón kín sát nhau và áp sát mặt đất. Các góc khớp mở như sau: khớp vai 90 - 1000, khớp khuỷu 120 - 1300. Các khớp phải rộng, có hõm lớn và sạch, không bị hỏng (mất) những đường viền tự nhiên, sờ thấy rõ xương và gân, không bị bệnh.
Những hiện tượng khác thường hay gặp là: cò, khoèo, lệch, thọt chân; thu chân lại dưới mình hoặc choãi chân ra phía trước, khô khớp, các loại bệnh khác về màng, xương, gân và các túi chất nhầy.
Chi sau gồm đùi, gối, cẳng chân, khớp gối, xương bàn chân và bàn chân.
Khi nhìn từ phía sau, các chi sau phải song song với nhau, các chi trước khép lại và có các góc của đốt khớp như sau: góc đùi khoảng 80 - 850, góc gối 125 - 1350, góc mở khớp gối 125 - 1350.
Những yêu cầu khác cũng giống như đối với chân trước vậy.
Những hiện tượng như co khớp đùi, tư thế đứng rộng và hẹp, hình thùng (ống), hình lưỡi kiếm, buông thõng và nhẽo chân (mềm chân ra) được coi là những khuyết tật và những thiếu sót.>>
3. CẤU TẠO CỦA CHÓ
Giáo sư P.N.Cullesov và những người kế tục ông đã soạn thảo được hệ thống các kiểu cấu tạo của chó và đã được áp dụng ở Liên Xô. Theo hệ thống này, người ta chia tất cả các giống chó ra thành 5 kiểu cấu tạo chủ yếu:
Cấu tạo thô thiển: Được biểu thị bằng kiểu: đầu hình khối, ngắn, rộng và cổ ít cử động, bộ xương nổi rõ và nặng, các chi hơi ngắn, hệ cơ nặng nề (ục ịch), da dầy, ít cử động, lông cứng.
Kiểu cấu tạo thô thiển là bản chất vốn có của chó, giống chó sống lâu, có sức sống và thích nghi tốt với mọi điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, loại hoạt động thần kinh cao nhất khoẻ, trầm tĩnh nhưng ít linh hoạt (cơ động). Phần lớn chó béc giê cáp-caz và trung Á thuộc loại cấu tạo này.
Cấu tạo mảnh mai: Được biểu thị bằng những tính chất ngược lại với kiểu cấu tạo thô thiển. Đầu nhẹ nhõm, duyên dáng, cổ nhỏ và hay cử động luôn. Bộ xương mình và các chi mảnh mai. Da mỏng, dễ căng và đàn hồi tốt, lông mềm mại, hầu như không có lông mao dưới. Hệ cơ bắp phát triển kém. Kiểu cấu tạo này phần lớn ở giống chó hay chết non (ít thọ). Loại hoạt động thần kinh cao nhất yếu, không điềm tĩnh, không linh hoạt. Sức sống và khả năng thích nghi với điều kiện sống hay thay đổi. Phần lớn giống chó lùn và chó giữ nhà có kiểu cấu tạo này.
Cấu tạo cường tráng: Được biểu thị bằng xương vững chắc, hệ cơ bắp phát triển tốt và có đường nét nổi rõ rệt. Da mỏng, đàn hồi tốt. Không nên nhầm lẫn kiểu cấu tạo cường tráng với kiểu cấu tạo thô thiển, vì con vật có dáng cấu tạo cường tráng thì sẽ không có những biểu hiện thô thiển, đần độn. Loại hoạt động thần kinh cao nhất thường là khoẻ, điềm tĩnh và linh hoạt. Phần lớn chó béc giê Đông Âu thuộc loại cấu tạo này.
Cấu tạo gầy còm: Bộ xương phát triển ít nhưng chắc, hệ cơ bắp gầy gò, không có các lớp mỡ dễ nhận thấy được qua lớp da, gân nổi rõ, đầu tương đối nhỏ, cổ cử động tốt, vận động nhanh nhẹn. Chó có cấu tạo kiểu này có sức sống tốt, chịu đựng được với những thay đổi hoàn cảnh một cách dễ dàng. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, cơ động, nhưng thường không điềm tĩnh. Phần lớn giống chó berman-pincherov và lai-ca thuộc kiểu cấu tạo này.
Cấu tạo yếu ớt: Được biểu hiện bằng sự phát triển mạnh hệ tế bào dưới da và mô mỡ có đọng các lớp mỡ không chỉ ở dưới da mà còn ở giữa những cơ, hệ cơ và gân không nổi. Da uốn nếp, cổ thường hay chúi xuống và có yếm. Bụng xệ, vận động uể oải. Sức sống tương đối tốt. Loại hoạt động thần kinh cao cấp khoẻ, điềm tĩnh nhưng ít linh hoạt. Các giống chó Xen-hernor nhi-u-pha-undlend thuộc loại cấu tạo này.
Các kiểu cấu tạo này, thực tế các yếu tố mảnh mai, gầy còm, thô thiển, cường tráng và yếu ớt có thể được kết hợp với nhau ở mức độ khác nhau trong giới hạn của giống này và giống khác.
Cấu tạo và ngoại hình chú ý đặc biệt khi chọn đôi để gây giống, để làm tăng thêm các đặc điểm mong muốn và giảm bớt những đặc điểm không cần thiết ở các thế hệ sau.
4. ĐO CHÓ BẰNG PHƯƠNG PHÁP SINH HỌC
Như đã nói ở trên, người ta thêm vào phần đánh giá ngoại hình bằng mắt thường, bằng cách đo sinh học. Khi so sánh các số đo của con vật theo tỷ số đã được xác định và biểu thị các số đó bằng phần trăm, ta được các chỉ số của thể tạng (dáng, vóc).
Các số đo sau đây thường được áp dụng:
1. Chiều cao ở bướu vai (chiều cao của chó) được đo bằng thước đo chiều cao theo đường dây dọi từ đất đến điểm cao nhất của bướu vai.
2. Chiều dài xiên của mình chó được đo bằng thước đo từ bờm ngoài của xương vai đến giữa bờm mông của xương chậu.
3. Vòng rộng đốt khớp bàn chân, dọi bằng thước dây có vạch đến cm, đặt ở đoạn 1/3 phía trên của khớp xương.
4. Chiều rộng của ngực đo ở phía trước, giữa hai vai.
5. Vòng ngực đo bằng thước dây theo chu vi phía sau của hai chân trước.
6. Chiều sâu của ngực được đo từ phần dưới của ngực đến phần trên của bướu vai; ở phía sau của hai chân trước (phía sau nách).
7. Chiều dài của chân trước được đo theo phương thẳng đứng tính từ đất đến phần nhô ra ở phía trên của khuỷu chân.
Sau khi có được kết quả đo, ta xác định các chỉ số.
Chỉ số kích thước hoặc chỉ số của độ dài: Chỉ số này biểu thị tỷ lệ phần trăm chiều dài xiên của mình chó so với chiều cao tại bướu vai, và chỉ rõ chiều dài của chó lớn hơn hoặc nhỏ hơn chiều cao là bao nhiêu, nghĩa là tỷ lệ với thân hình.
Chỉ số lượng xương: Tỷ lệ phần trăm của vòng khớp đốt bàn chân với chiều cao tại bướu vai. Nó biểu thị độ phát triển của khớp đốt bàn chân so với chiều cao của chó, tỷ lệ càng lớn thì khớp đốt bàn chân càng nhiều, chó có xương to hơn.
Chỉ số độ cao của chân: tỷ lệ phần trăm của chiều dài chân trước với chiều cao tại bướu vai.
Góc của đốt các khớp được xác định bằng mắt thường hoặc bằng thước đo.
Khi so sánh các chỉ số với tiêu chuẩn ta có thể kết luận được thân hình (thể tạng) của chó đúng hay không đúng.
5. MÀU LÔNG HOẶC SẮC THÁI CỦA CHÓ
Người ta gọi màu lông phổ biến nhất của chó là mầu lông hoặc sắc thái. Sắc thái có thể từng đám hoặc liên tục. Trên mình chó có những vết lớn hoặc những đám lông khác màu gọi là đốm, còn những chỗ cùng màu nhưng có màu sáng hơn gọi là khoang.
Tuỳ theo chiều dài của lông mà chó được chia ra thành giống chó có lông dài và giống chó có lông ngắn; và theo mật độ của lông thì có giống chó lông dày và giống chó lông thưa.
Giống, điều kiện khí hậu và điều kiện nuôi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến độ dài và độ dày của lông.
Màu lông xám hoặc sắc thái xám từng vùng là biểu hiện đặc tính rõ nhất đối với chó Đông Âu. Nền xám chung của thân chó được hình thành là do chính màu lông không đều như: chân lông xám, đoạn giữa lông đen và đầu lông trắng đen. Theo sắc thái, màu này thường là màu xám đen và xám trắng. Sắc thái xám thường được gọi là lông chó sói.
Sắc thái rùa: gồm hai màu chủ yếu là lưng đen, giống như được phủ lớp lông ngựa và những phần còn lại có màu sáng hơn. Chó Béc giê Đông Âu thường có màu xám.
Màu hung hung: màu lông hung hung có những sắc thái khác nhau gồm: từ màu hung vàng, hung đen và hung sáng đến hung đỏ. Màu hung hung thường gặp cùng với các đốm khoang ở vùng đầu, bẹn và những phần trên của các chi.
Ngoài những màu lông nói trên có những mày khác như: trắng, đen, màu lông hổ, màu vàng nhạt.