Ngày nay, quan niệm như thế nào là loài cá cảnh không chỉ bó hẹp ở các yếu tố màu sắc và hình dáng mà còn ở yếu tố “lạ và độc đáo”. Do vậy mà trong giới chơi cá người ta thường sưu tầm các loài cá săn mồi (predator) bởi vì “thần thái” dữ tợn của chúng; mặt khác những con cá có hình dáng lạ mắt “trông chẳng giống ai” (odd ball) cũng là đối tượng mà một số người nuôi cá sưu tầm. Chúng ta có thể liệt kê rất nhiều loài có các đặc điểm như vậy đang lưu hành trên thị trường cá cảnh bao gồm cá đuối nước ngọt, cá piranha, cá thát lát, cá khủng long, cá sấu mỏ vịt... và tất nhiên cả cá lóc nữa. Cá lóc là một lựa chọn hoàn hảo cho những người yêu thích các loài cá săn mồi với dáng vẻ uyển chuyển, uy nghi, và đặc biệt các vây luôn trương thẳng. Đối với chúng ta, cá lóc trông quá quen thuộc nhưng chúng lại là đối tượng sưu tầm của một bộ phận những người chơi cá cảnh trên thế giới. Bài viết sau đây sẽ đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến thú chơi còn khá mới mẻ này!
Con cá lóc đen Channa striata với cái mồm lởm chởm răng trên đây có màu sắc hết sức bình thường nhưng lại hấp dẫn người nuôi cá ở dáng vẻ hung dữ của chúng.
Loài Channa barca cực đẹp và hiếm. Được biết, hiện chỉ có 6 cá thể của loài này trên thị trường cá cảnh thế giới mà thôi (nguồn www.tomhalvorsen.co.uk).
Loài Channa aurantimaculata cũng tuyệt đẹp. Loài này tương đối phổ biến hơn loài Channa barca ở trên (nguồn http://www.freewebs.com/yuchiachang).
Loài Channa bleheri có nhiều đốm ở trên thân.
Loài Channa sp. Assam hay "blue bleheri" tương tự như loài bleheri nhưng có vây màu xanh.
I. Sơ lược về họ cá lóc (Channidae)
Cá lóc trong tiếng Anh được gọi là cá “đầu rắn” (snakehead), ám chỉ đến cái đầu thuôn và tròn trông giống như đầu rắn. Họ cá lóc Channidae bao gồm 2 chi là Channa, phân bố ở châu Á và chi Parachanna, phân bố ở châu Phi. Chi Channa có 29 loài còn chi Parachanna có 3 loài. Phía trên nắp mang của cá lóc có một cấu trúc màng gọi là mang phụ (suprabranchial organ), qua đó ô-xy từ không khí có thể thẩm thấu trực tiếp vào mạch máu; nhờ vậy mà cá lóc có thể tồn tại trong môi trường nghèo ô xy hoặc bò trên cạn, vượt qua rào cản để thâm nhập vào các vùng nước mới. Mang phụ ở chi Parachanna có cấu trúc đơn giản hơn ở chi Channa; chức năng của nó cũng tương tự như mê lộ (labyrinth) ở những loài thuộc họ Osphronemidae, chẳng hạn như cá rô đồng nhưng không phát triển bằng.
Hầu hết các ý kiến đều cho rằng tổ tiên của cá lóc xuất hiện ở một trong hai lục địa châu Á hoặc châu Phi rồi mới thâm nhập vào lục địa kia khi chúng thông với nhau ở vào một thời điểm nào đó trong quá khứ. Cấu trúc mang đơn giản hơn ở chi Parachanna cho thấy loài tổ tiên của cá lóc xuất hiện trước tiên ở châu Phi trong khi số lượng loài ít ỏi ở đấy lại cho thấy điều ngược lại. Trên thực tế, hóa thạch cá lóc cổ xưa nhất lại được phát hiện ở... châu Âu và có niên đại vào cuối đại Oligocene và đầu đại Miocene (cách nay từ 20 đến 25 triệu năm). Như vậy, tổ tiên của chúng phải xuất hiện từ trước đó và người ta tin rằng đó là vào kỷ Jurassic! ( cách nay trên 100 triệu năm).
Cá lóc phân bố chủ yếu trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Phi và châu Á; tuy nhiên cá biệt có vài loài phân bố ở những vùng khí hậu lạnh hơn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc và vùng Siberia. Mặc dù không phải là loài cá nước ngọt sơ khai, cá lóc lại hoàn toàn thích nghi với nước ngọt và chịu đựng độ mặn rất kém. Chúng sống chủ yếu ở sông và kênh rạch; ngoài ra chúng còn xuất hiện ở ao, hồ, ruộng lúa, hoặc đầm lầy... Chúng có thể tồn tại trong môi trường nghèo ô-xy nhờ khả năng “hít thở” trong không khí. Một số loài có khả năng chịu đựng đặc biệt; chẳng hạn loài Channa banganensis sống ở vùng “nước đen” có độ acid cao (3-4 độ pH); rồi các loài Channa gachua, Channa striata và Channa punctata có thể chịu đựng được tầm pH biến thiên rất rộng, từ 4 đến 9 độ trong vòng 72 giờ; còn loài Channa argus ở sông Amur, Siberia lại có thể sống sót qua mùa đông khắc nghiệt!
II. Cá lóc với thị trường cá cảnh
Cá lóc thâm nhập thị trường cá cảnh ở châu Âu, châu Mỹ và một số quốc gia ở châu Á như Singapore, Đài Loan và Nhật Bản bởi vì sở thích nuôi cá dữ, cá săn mồi của những người chơi cá ở đấy. Mặc dù việc nuôi chúng khá tốn kém bởi tập quán thích ăn mồi sống và cần hồ nuôi rộng nhưng vẫn có một số người chỉ chuyên nuôi cá lóc. Trên thực tế, số lượng người nuôi và quan tâm đến cá lóc vẫn đang tăng dần; nhiều người trong số họ vốn là người nuôi cichlid và tò mò xem cá lóc có thể nuôi chung với cichlid hay không. Phong trào nuôi cá lóc làm cảnh bắt đầu phát triển từ vài chục năm trước; đến nay cá lóc chiếm một thị phần tương đối khiêm tốn trong toàn bộ thị trường cá cảnh nói chung.
Con cá lóc đen Channa striata với cái mồm lởm chởm răng trên đây có màu sắc hết sức bình thường nhưng lại hấp dẫn người nuôi cá ở dáng vẻ hung dữ của chúng.
Nhìn chung, các loài cá lóc kích thước nhỏ phổ biến trên thị trường cá cảnh hơn là các loài lớn. Vào thời điểm năm 1990, loài Channa gachua được bán ở thị trường cá cảnh Singapore với giá từ 30 đến 60 đô la một con trong khi các loài lớn hơn một chút như Channa melanoptera và Channa pleurophthalma có giá gần 100 đô la. Chúng đều là những cá thể được đánh bắt trực tiếp ngoài tự nhiên và điều này làm dấy lên những lo ngại rằng việc khai thác quá mức cộng với nạn phá rừng sẽ làm cho những loài này bị tuyệt chủng. Ở thị trường Mỹ, mỗi con ròng ròng (cá lóc non) có giá khoảng 15 đô la, một con Channa bleheri kích thước từ 8-15 cm có giá dao động từ 55-75 đô la, trong khi những con lớn hơn có giá khoảng 100 đô la tuỳ vào kích thước. Đặc biệt, vào năm 2005, một cặp Channa barca trưởng thành được nhập vào nước Anh với giá khoảng... 9.000 đô la. Giá cao như vậy là bởi vì loài này không những tuyệt đẹp mà còn cực hiếm nữa.
Điều nữa cần phải nói, đó là việc nuôi và mua bán cá lóc bị cấm ở một số bang của Mỹ; trong khi việc nuôi loài Channa argus ở Anh cần phải có giấy phép. Cá lóc là loài cá săn mồi dữ tợn; cho nên nếu để chúng thoát ra môi trường tự nhiên, chúng sẽ đe doạ đến sự tồn tại những loài cá bản địa khác, từ đó làm ảnh hưởng đến sự cân bằng sinh thái của khu vực. Hầu hết các loài cá lóc đều sống trong vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới; cho nên luật cấm nuôi và buôn bán cá lóc được áp dụng ở các hầu hết các bang miền nam nước Mỹ, những nơi có khí hậu ấm áp. Đặc biệt, loài Channa argus có thể chịu được khí hậu lạnh, do vậy nó là loài có mức độ đe doạ cao nhất đến cân bằng sinh thái ở các quốc gia Âu, Mỹ.
Nếu chỉ xét trên khía cạnh “độc đáo” thì tất cả các loài cá lóc đều có thể nuôi làm cảnh và thực tế diễn ra đúng như vậy. Tuy nhiên, một số loài cá lóc có màu sắc rất đẹp, có thể nói là không thua gì các loài cichlid mà ở đây chúng ta có thể liệt kê ra một vài loài tiêu biểu. Chúng đều là các loài phân bố ở lưu vực sông Brahmaputra, phía bắc vùng Assam, Ấn Độ. Đó là các loài Chana barca, kích thước tối đa 90 cm, loài Channa aurantimaculata, kích thước tối đa 40 cm, loài Channa bleheri, kích thước tối đa 20 cm và loài tương tự như Channa bleheri nhưng có vây màu xanh, được lưu hành trên thị trường cá cảnh với tên Channa sp. Assam hay “blue bleheri".
Loài Channa barca cực đẹp và hiếm. Được biết, hiện chỉ có 6 cá thể của loài này trên thị trường cá cảnh thế giới mà thôi (nguồn www.tomhalvorsen.co.uk).
Loài Channa aurantimaculata cũng tuyệt đẹp. Loài này tương đối phổ biến hơn loài Channa barca ở trên (nguồn http://www.freewebs.com/yuchiachang).
Loài Channa bleheri có nhiều đốm ở trên thân.
Loài Channa sp. Assam hay "blue bleheri" tương tự như loài bleheri nhưng có vây màu xanh.
(còn tiếp)