Hoa lan hay phong lan hay cây hoa lan hay cây lan
(tên khoa học: Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây, lớp thực vật một lá mầm. Họ Orchideceae là một trong những họ lớn nhất của thực vật và có các thành viên mọc trên toàn thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực; có cây hoa lan sống dưới mặt đất và chỉ nở hoa trên mặt đất cũng như có cây hoa lan sống tại vùng cao nguyên của dãy Himalaya; hoa lan có thể tìm thấy tại các vùng có khí hậu nhiệt đới như trong rừng già của Brasil đến các vùng có tuyết phủ trong mùa đông như tại bình nguyên của Manitoba, Canada; hoa lan có loại mọc trên đất (terrestrial), có loại mọc trên cây cao (epiphyte) và có loại mọc trên đá (lithophyte).
Hoa lan được người tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vồng và những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt gạo trong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1 m. Tuy đa số các loại hoa lan tìm thấy trên thị trường thường không có hương thơm, có rất nhiều loại hoa lan có mùi. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ Mexico; trong khi đó có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng.
Hoa lan được trồng tại một số nơi ở Việt Nam, trong đó có Đà Lạt.
Hoa Lan ở Đà Lạt
Khi Đà Lạt mới được khám phá, hoa lan đã được thu hoạch tự nhiên. Đến những năm 1960, việc nhập giống mới đã giúp phát triển nghề trồng hoa này tại đây.
Các cây lan nhập nội được nuôi trồng ở Đà Lạt nằm trong các chi: Catleya, Cymbidium (địa lan), Dendrobium, Paphiopedillum, Oncidium, Odontoglossum, Vanda. Các cây lan nhập nội được trồng trọt nhiều nhất là trong chi Cymbidium với trên 300 giống. Các giống Bengal Bay Golden Hue, Suva Royal Velvet, Sayonara Raritan, Balkis, Eliotte được nhập nội từ những năm 1960 cho đến nay vẫn còn được ưa chuộng và trồng trọt khá nhiều tại các vườn lan.
Các loài lan nội địa cũng đã được sưu tập và trồng trọt phổ biến tại Đà Lạt từ những năm 1940 cho đến nay. Các loài lan được ưa chuộng tại các vườn lan Đà Lạt là:
Long tu (Dendrobium primulinum Lindl.)
Kim điệp (Den. Chrysotosum Lindl. var. Delacourii Gagn.)
Thủy tiên trắng (Den. Farmeri Paxton)
Thủy tiên vàng (Den. Thyrsiflorum Rchb. f.)
Thủy tiên mỡ gà (Den. Densiflorum Wall)
Long nhãn kim điệp (Den. Fimbriatum Hook, var. oculatum Hook)
Giả hạc (Den. Superbum Reich. in Walp)
Ý thảo (Den. gratiotissimum Rchb. f.)
Các loại Lọng (Bulbophyllum sp.)
Tuyết ngọc (Coelogyne psectrantha Gagn.)
Hàm lân (Coelogyne Lawrenceana Rofle)
Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana Bens et Rchb. f.)
Tóc tiên (Vanda Watsonii Rolfe)
Cẩm báo (Vandopsis parishii (Veitsch) Reichb. f.)
Một bông hoa lanHuyết nhung (Renanthera Imschootiana Rolfe)
Bò cạp (Renanthera Evrardii Guillaum)
Hồ điệp (Phalaenopsis manii Reichb. f.)
Vân hài (Paphiopedilum callosum Kerchove)
Kim hài (Paphiopedilum villosum (Lindl.) Pfitz.)
Hồng dâu (Aerides lawrenceana)
Hạc đỉnh (Phajus tankervilleae (Ait.) Bl.)
(Theo Wikipedia)
(tên khoa học: Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây, lớp thực vật một lá mầm. Họ Orchideceae là một trong những họ lớn nhất của thực vật và có các thành viên mọc trên toàn thế giới, ngoại trừ châu Nam Cực; có cây hoa lan sống dưới mặt đất và chỉ nở hoa trên mặt đất cũng như có cây hoa lan sống tại vùng cao nguyên của dãy Himalaya; hoa lan có thể tìm thấy tại các vùng có khí hậu nhiệt đới như trong rừng già của Brasil đến các vùng có tuyết phủ trong mùa đông như tại bình nguyên của Manitoba, Canada; hoa lan có loại mọc trên đất (terrestrial), có loại mọc trên cây cao (epiphyte) và có loại mọc trên đá (lithophyte).
Hoa lan được người tiêu dùng ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vồng và những kết hợp của các màu đó. Hoa lan nhỏ nhất chỉ bằng hạt gạo trong khi hoa lan lớn nhất có đường kính khoảng 1 m. Tuy đa số các loại hoa lan tìm thấy trên thị trường thường không có hương thơm, có rất nhiều loại hoa lan có mùi. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ Mexico; trong khi đó có các loại hoa lan tỏa ra mùi như thịt bị hỏng để hấp dẫn các côn trùng.
Hoa lan được trồng tại một số nơi ở Việt Nam, trong đó có Đà Lạt.
Hoa Lan ở Đà Lạt
Khi Đà Lạt mới được khám phá, hoa lan đã được thu hoạch tự nhiên. Đến những năm 1960, việc nhập giống mới đã giúp phát triển nghề trồng hoa này tại đây.
Các cây lan nhập nội được nuôi trồng ở Đà Lạt nằm trong các chi: Catleya, Cymbidium (địa lan), Dendrobium, Paphiopedillum, Oncidium, Odontoglossum, Vanda. Các cây lan nhập nội được trồng trọt nhiều nhất là trong chi Cymbidium với trên 300 giống. Các giống Bengal Bay Golden Hue, Suva Royal Velvet, Sayonara Raritan, Balkis, Eliotte được nhập nội từ những năm 1960 cho đến nay vẫn còn được ưa chuộng và trồng trọt khá nhiều tại các vườn lan.
Các loài lan nội địa cũng đã được sưu tập và trồng trọt phổ biến tại Đà Lạt từ những năm 1940 cho đến nay. Các loài lan được ưa chuộng tại các vườn lan Đà Lạt là:
Long tu (Dendrobium primulinum Lindl.)
Kim điệp (Den. Chrysotosum Lindl. var. Delacourii Gagn.)
Thủy tiên trắng (Den. Farmeri Paxton)
Thủy tiên vàng (Den. Thyrsiflorum Rchb. f.)
Thủy tiên mỡ gà (Den. Densiflorum Wall)
Long nhãn kim điệp (Den. Fimbriatum Hook, var. oculatum Hook)
Giả hạc (Den. Superbum Reich. in Walp)
Ý thảo (Den. gratiotissimum Rchb. f.)
Các loại Lọng (Bulbophyllum sp.)
Tuyết ngọc (Coelogyne psectrantha Gagn.)
Hàm lân (Coelogyne Lawrenceana Rofle)
Mỹ dung dạ hương (Vanda denisoniana Bens et Rchb. f.)
Tóc tiên (Vanda Watsonii Rolfe)
Cẩm báo (Vandopsis parishii (Veitsch) Reichb. f.)
Một bông hoa lanHuyết nhung (Renanthera Imschootiana Rolfe)
Bò cạp (Renanthera Evrardii Guillaum)
Hồ điệp (Phalaenopsis manii Reichb. f.)
Vân hài (Paphiopedilum callosum Kerchove)
Kim hài (Paphiopedilum villosum (Lindl.) Pfitz.)
Hồng dâu (Aerides lawrenceana)
Hạc đỉnh (Phajus tankervilleae (Ait.) Bl.)
(Theo Wikipedia)