CÁC QUÁ TRÌNH ỨC CHẾ Ở VỎ ĐẠI NÃO>>
Việc ức chế các phản xạ này bằng các phản xạ khác là hiện tượng rất phổ biến của hoạt động thần kinh. Sự ức chế cho khả năng điều chỉnh là hoàn thiện các phản xạ có điều kiện, bảo đảm sự tập trung đối với hoạt động quan trọng của động vật và giữ lại hoạt động khác kém quan trọng hơn ở một thời điểm cụ thể. Sự ức chế như vậy gọi là ức chế không điều kiện.
Ức chế không điều kiện phát triển ở khắp các bộ phận của hệ thống thần kinh, ức chế không điều kiện gọi là ức chế bên ngoài, bởi vì nó xuất hiện trong mối liên hệ với sự biểu hiện của phản xạ quan trọng ở một thời điểm cụ thể mà phản xạ ấy lại giữ lại tất cả các phản xạ còn lại có tính chất thứ yếu.
Phản xạ có điều kiện được hình thành đối với khẩu lệnh. Ví dụ "nằm" có thể không thể hiện ở chỗ nếu như lúc đó gần chó lại xuất hiện một người lạ hoặc lúc đó có con mèo chạy qua, hoặc có tiếng nổ lớn vọng lại từ xa…
Thời gian đầu của việc luyện tập cho chó không nên đưa các kích thích để đánh lạc hướng, sau đó cần phải phức tạp hoá hoàn cảnh một cách liên tục và lúc đó nhiều kích thích bất ngờ dần mất đi ý nghĩa ức chế, cho đến chừng nào phản xạ định hướng gây ra ức chế. Khi lặp lại thì ức chế yếu đi. Hiện tượng này gọi là ức chế dập tắt.
Những con chó nào trong khi nuôi dưỡng được làm quen với các vật khác nhau và các hiện tượng khác nhau của môi trường xung quanh thì sẽ dễ chịu đựng được các kích thích không bình thường hơn và cũng nhanh chóng quen được với các kích thích dễ hơn.
Đối với các kích thích mà khi lặp lại chúng, các hoạt động của chúng không làm mất ý nghĩa ức chế của mình thì các ức chế đó gọi là ức chế không bị dập tắt hoặc ức chế thường trực. Cần phải thủ tiêu các ức chế này đi. Không được cho các con chó ốm luyện tập và cũng không tiến hành tập luyện đối với cả chó cái đang chửa sắp đẻ. Trước khi tập luyện, cho chó dạo chơi để chó có thể đi đái hoặc ỉa.
Còn một loại ức chế nữa gọi là ức chế quá mức hay là ức chế bảo vệ. Loại ức chế này chỉ xuất hiện khi có sự hoạt động của các kích thích rất mãnh liệt hoặc kích thích hoạt động lâu với cường độ bình thường, đó là kích thích vượt ra ngoài giới hạn của khả năng làm việc của các tế bào thần kinh vỏ não và trả lời các kích thích này không phải là sự hưng phấn mà là sự ức chế. Điều này giữ cho các tế bào thần kinh vỏ não không bị suy mòn.
Do đó, khi tập luyện cho chó không được áp dụng các kích thích quá mạnh, đặc biệt đối với những con chó có hệ thần kinh yếu, và không được nhắc đi nhắc lại đều đều và nhiều lần một loại kích thích.
Ở vỏ não của động vật còn có chỗ cho ức chế có điều kiện tích cực. Ức chế có điều kiện tích cực chỉ thể hiện trong các điều kiện nhất định. Ức chế loại này được hình thành dần và đôi khi được giữ lại ở chó khá lâu. Ức chế có điều kiện được hình thành khi không có củng cố hoặc khi củng cố chậm sự hoạt động của kích thích có điều kiện bằng kích thích không điều kiện. Ví dụ, phản xạ đối với khẩu lệnh "theo tôi" sẽ dần dần yếu đi nếu phản xạ này không được củng cố thường xuyên bằng kích thích không điều kiện - giật mạnh dây cương, và cuối cùng phản xạ này sẽ hoàn toàn bị biến mất, nghĩa là nó sẽ bị dập tắt. Sự dập tắt phản xạ này là do xuất hiện ức chế dập tắt. Các phản xạ có điều kiện ít bền vững thì sẽ bị dập tắt nhanh hơn so với các phản xạ bền vững. Phản xạ không điều kiện càng mãnh liệt thì phản xạ có điều kiện được hình thành trên cơ sở của phản xạ không điều kiện ấy sẽ càng chậm bị dập tắt. Thường các phản xạ tự vệ của chó bị dập tắt chậm hơn so với các phản xạ thuộc về ăn uống.
Những con chó đã được tập luyện có khả năng phân biệt những kích thích giống nhau. Ví dụ, có 3 hoặc 4 người để lại đồ vật của mình, một trong số họ cho chó ngửi tay mình hoặc đồ vật của mình, chó sẽ chọn ra được đề vật của người đó giữa các đồ vật khác. Đối với trường hợp này, ở vỏ não diễn ra quá trình hưng phấn đối với mùi của vật được chọn ra và quá trình ức chế đối với các mùi của các vật khác. Nhờ sự hỗ trợ của sự ức chế này (ức chế biệt hoá) mà chó phân biệt được vật cần thiết giữa các vật khác.
Các kích thích càng giống nhau thì ức chế biệt hoá càng khó hình thành và quá trình này càng đòi hỏi sự làm việc căng thẳng của các tế bào thần kinh nhiều hơn. Việc hình thành ức chế này có ý nghĩa lớn lao trong khi chó làm nghiệp vụ, đặc biệt chó cần phải phân biệt mùi của kẻ truy lùng giữa các mùi khác. Chó càng hưng phấn thì càng khó hình thành ức chế biệt hoá, nếu chó bị hưng phấn đối với các kích thích khác nhau thì ngay lập tức sau sự hưng phấn chó sẽ phân biệt rất kém.
Nếu nối tiếp thêm vào tín hiện có điều kiện dương tính một tín hiệu phụ nữa và lại không củng cố liên hợp này, thì ức chế có điều kiện sẽ hình thành. Ức chế có điều kiện này sẽ tạo cho động vật có hành vi thích ứng với những điều kiện cụ thể và làm chính xác thêm cho các phản xạ có điều kiện. Ví dụ, chó phản ứng lại người lạ bằng phản xạ tự vệ, nhưng huấn luyện viên tiếp thêm 1 kích thích phụ nữa đó là phát lệnh phụ thì phản xạ này sẽ giảm sút hoặc hoàn toàn bị trì hoãn.
Khi hình thành các phản xạ có điều kiện chậm và phản xạ có điều kiện dấu vết trong không gian trong vòng, ví dụ từ 1-2 hoặc lâu hơn ít nữa kể từ khi bắt đầu sự hoạt động của kích thích có điều kiện, thì ức chế chậm hình thành và sau đó thể hiện. Việc hình thành ức chế chậm rất khó, đặc biệt đối với những con chó dễ bị hưng phấn. Trên cơ sở của ức chế chậm, người ta hình thành được ở chó tính kiên nhẫn để có được các kỹ năng chung và các kỹ năng đặc biệt đã được quy định (ngồi, nằm, canh phòng tại chỗ, cầm vật …).>>
HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP CỦA VỎ BÁN CẦU ĐẠI NÃO>>
Hoạt động thần kinh cao cấp của động vật được thể hiện ở hình thức phân tích (phân tích ra thành các yếu tố thành phần) và hình thức tổng hợp các lúc nhận kích thích của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Hoạt động phức tạp này được thực hiện là nhờ có 2 quá trình cơ bản, đó là hưng phấn và ức chế.
Các cơ quan phân tích - là các cấu trúc thần kinh tạo ra sự phân tích tinh vi nhất (phân tích 1 chỉnh thể ra thành các yếu tố thành phần) đối với tất cả các kích thích mà chó thu nhận được từ môi trường bên ngoài và từ môi trường bên trong của cơ thể: sự tổng hợp của chó cũng như vậy.
Ví dụ, một con chó dã được luyện tập quen với việc chọn đồ vật có thể chọn được chính xác một vật cần thiết theo mùi giữa 10 - 15 các đồ vật khác, mặc dù các đồ vật đó có các mùi khác nhau. Trong điều kiện phòng thí nghiệm có thể thử được sự phân biệt rõ ràng giữa 100 nhịp đập của máy nhịp. Trong q phút với 96 nhịp đập và phân biệt được sự giao động giữa 500 âm với 498 âm và những tác động khác.
Ví dụ về sự gắn bó mật thiết giữa hoạt động phân tích và hoạt động tổng hợp của vỏ đại não là cơ sở của cấu trúc của phản xạ có điều kiện. Phản xạ có điều kiện là sự tổng hợp, là sự nối liền kích thích có điều kiện với phản ứng do chính kích thích đó gây ra. Việc phân tích và tổng hợp diễn ra đồng thời và điều này tạo khả năng cho việc hoàn thiện liên tục phản xạ có điều kiện: phản xạ lúc đầu xuất hiện không rõ ràng, sau đó dần dần trở nên chính xác và nhất định. Điều đó được cắt nghĩa bởi sự ưu việt trong thời gian đầu hình thành phản xạ có điều kiện của việc hình thành phản xạ có điều kiện, do sự khuyếc tán của hưng phấn, sự lan rộng phản xạ dần dần phát triển. Trong khi tiếp tục củng cố vững chắc phản xạ, chúng ta đạt được sự thể hiện chính xác và nhất định của nó (thời kỳ đặc biệt của phản xạ có điều kiện). Đối với trường hợp này, tất cả các phản xạ giống nó về mặt phản ứng lại các kích thích hỗn hợp thì đều bị mất đi ý nghĩa của mình, chúng bị dập tắt do sự phát triển của ức chế biệt hoá.
Khi đặc biệt hoá phản xạ có điều kiện thì hoạt động phân tích của vỏ não bộ cũng có một cách tạm thời. Việc đặc biệt hoá diễn ra nhanh hơn khi tín hiệu chủ yếu được củng cố, còn các kích thích hỗn hợp thì được áp dụng không có củng cố.
Trên cơ sở của hoạt động liên kết lẫn nhau giữa phân tích và tổng hợp của vỏ não đã tạo ra cho động vật khả năng thích nghi đối với điều kiện để tồn tại. Nơi mà động vật cần phản ứng lại đối với một tập hợp các kích thích thì sẽ xảy ra hoạt động tổng hợp, còn nơi mà động vật cần phản ứng lại từng kích thích nghiêm ngặt nhất định thì sẽ xảy ra hoạt động phân tích. Đối với trường hợp này, động vật trả lời bằng sự ức chế đối với tất cả các kích thích khác nhau, ngoài ra còn đối với cả kích thích gây ra phản ứng dương.
Ví dụ, trong việc truy lùng dấu vết, ở chó thể hiện cả hoạt động phân tích hoạt động tổng hợp của vỏ não bộ. Chó cần phải tìm dấu vết của một người bất kỳ nào đó, ở trường hợp này là hoạt động chung. Nhưng khi chó tìm dấu vết của một người cụ thể căn cứ theo mùi, chó sẽ phân tích chính xác (hoạt động phân tích) mùi của dấu vết với các mùi lạ khác. Đối với các mùi này, chó thể hiện ức chế biệt hoá. Nếu chó bị bắt buộc phải tìm dấu váêt chỉ của một người trong suốt cả thời gian nó làm việc thì hoạt động tổng hợp của vỏ não sẽ hạn chế và chó sẽ không tìm dấu vết theo mùi của những người khác. Do đó cần phải tập luyện cho chó biết tìm dấu vết của nhiều người khác nhau, nghĩa là phải liên tục thay đổi người phụ việc.
Do vậy, hoạt động phân tích và tổng hợp của vỏ đại não có 1 ý nghĩa rất quan trọng đối với cơ thể động vật. Nó cho phép chó có khả năng định hướng trong hoàn cảnh xung quanh và phản ứng lại các kích thích khác nhau một cách đúng đắn.
Việc ức chế các phản xạ này bằng các phản xạ khác là hiện tượng rất phổ biến của hoạt động thần kinh. Sự ức chế cho khả năng điều chỉnh là hoàn thiện các phản xạ có điều kiện, bảo đảm sự tập trung đối với hoạt động quan trọng của động vật và giữ lại hoạt động khác kém quan trọng hơn ở một thời điểm cụ thể. Sự ức chế như vậy gọi là ức chế không điều kiện.
Ức chế không điều kiện phát triển ở khắp các bộ phận của hệ thống thần kinh, ức chế không điều kiện gọi là ức chế bên ngoài, bởi vì nó xuất hiện trong mối liên hệ với sự biểu hiện của phản xạ quan trọng ở một thời điểm cụ thể mà phản xạ ấy lại giữ lại tất cả các phản xạ còn lại có tính chất thứ yếu.
Phản xạ có điều kiện được hình thành đối với khẩu lệnh. Ví dụ "nằm" có thể không thể hiện ở chỗ nếu như lúc đó gần chó lại xuất hiện một người lạ hoặc lúc đó có con mèo chạy qua, hoặc có tiếng nổ lớn vọng lại từ xa…
Thời gian đầu của việc luyện tập cho chó không nên đưa các kích thích để đánh lạc hướng, sau đó cần phải phức tạp hoá hoàn cảnh một cách liên tục và lúc đó nhiều kích thích bất ngờ dần mất đi ý nghĩa ức chế, cho đến chừng nào phản xạ định hướng gây ra ức chế. Khi lặp lại thì ức chế yếu đi. Hiện tượng này gọi là ức chế dập tắt.
Những con chó nào trong khi nuôi dưỡng được làm quen với các vật khác nhau và các hiện tượng khác nhau của môi trường xung quanh thì sẽ dễ chịu đựng được các kích thích không bình thường hơn và cũng nhanh chóng quen được với các kích thích dễ hơn.
Đối với các kích thích mà khi lặp lại chúng, các hoạt động của chúng không làm mất ý nghĩa ức chế của mình thì các ức chế đó gọi là ức chế không bị dập tắt hoặc ức chế thường trực. Cần phải thủ tiêu các ức chế này đi. Không được cho các con chó ốm luyện tập và cũng không tiến hành tập luyện đối với cả chó cái đang chửa sắp đẻ. Trước khi tập luyện, cho chó dạo chơi để chó có thể đi đái hoặc ỉa.
Còn một loại ức chế nữa gọi là ức chế quá mức hay là ức chế bảo vệ. Loại ức chế này chỉ xuất hiện khi có sự hoạt động của các kích thích rất mãnh liệt hoặc kích thích hoạt động lâu với cường độ bình thường, đó là kích thích vượt ra ngoài giới hạn của khả năng làm việc của các tế bào thần kinh vỏ não và trả lời các kích thích này không phải là sự hưng phấn mà là sự ức chế. Điều này giữ cho các tế bào thần kinh vỏ não không bị suy mòn.
Do đó, khi tập luyện cho chó không được áp dụng các kích thích quá mạnh, đặc biệt đối với những con chó có hệ thần kinh yếu, và không được nhắc đi nhắc lại đều đều và nhiều lần một loại kích thích.
Ở vỏ não của động vật còn có chỗ cho ức chế có điều kiện tích cực. Ức chế có điều kiện tích cực chỉ thể hiện trong các điều kiện nhất định. Ức chế loại này được hình thành dần và đôi khi được giữ lại ở chó khá lâu. Ức chế có điều kiện được hình thành khi không có củng cố hoặc khi củng cố chậm sự hoạt động của kích thích có điều kiện bằng kích thích không điều kiện. Ví dụ, phản xạ đối với khẩu lệnh "theo tôi" sẽ dần dần yếu đi nếu phản xạ này không được củng cố thường xuyên bằng kích thích không điều kiện - giật mạnh dây cương, và cuối cùng phản xạ này sẽ hoàn toàn bị biến mất, nghĩa là nó sẽ bị dập tắt. Sự dập tắt phản xạ này là do xuất hiện ức chế dập tắt. Các phản xạ có điều kiện ít bền vững thì sẽ bị dập tắt nhanh hơn so với các phản xạ bền vững. Phản xạ không điều kiện càng mãnh liệt thì phản xạ có điều kiện được hình thành trên cơ sở của phản xạ không điều kiện ấy sẽ càng chậm bị dập tắt. Thường các phản xạ tự vệ của chó bị dập tắt chậm hơn so với các phản xạ thuộc về ăn uống.
Những con chó đã được tập luyện có khả năng phân biệt những kích thích giống nhau. Ví dụ, có 3 hoặc 4 người để lại đồ vật của mình, một trong số họ cho chó ngửi tay mình hoặc đồ vật của mình, chó sẽ chọn ra được đề vật của người đó giữa các đồ vật khác. Đối với trường hợp này, ở vỏ não diễn ra quá trình hưng phấn đối với mùi của vật được chọn ra và quá trình ức chế đối với các mùi của các vật khác. Nhờ sự hỗ trợ của sự ức chế này (ức chế biệt hoá) mà chó phân biệt được vật cần thiết giữa các vật khác.
Các kích thích càng giống nhau thì ức chế biệt hoá càng khó hình thành và quá trình này càng đòi hỏi sự làm việc căng thẳng của các tế bào thần kinh nhiều hơn. Việc hình thành ức chế này có ý nghĩa lớn lao trong khi chó làm nghiệp vụ, đặc biệt chó cần phải phân biệt mùi của kẻ truy lùng giữa các mùi khác. Chó càng hưng phấn thì càng khó hình thành ức chế biệt hoá, nếu chó bị hưng phấn đối với các kích thích khác nhau thì ngay lập tức sau sự hưng phấn chó sẽ phân biệt rất kém.
Nếu nối tiếp thêm vào tín hiện có điều kiện dương tính một tín hiệu phụ nữa và lại không củng cố liên hợp này, thì ức chế có điều kiện sẽ hình thành. Ức chế có điều kiện này sẽ tạo cho động vật có hành vi thích ứng với những điều kiện cụ thể và làm chính xác thêm cho các phản xạ có điều kiện. Ví dụ, chó phản ứng lại người lạ bằng phản xạ tự vệ, nhưng huấn luyện viên tiếp thêm 1 kích thích phụ nữa đó là phát lệnh phụ thì phản xạ này sẽ giảm sút hoặc hoàn toàn bị trì hoãn.
Khi hình thành các phản xạ có điều kiện chậm và phản xạ có điều kiện dấu vết trong không gian trong vòng, ví dụ từ 1-2 hoặc lâu hơn ít nữa kể từ khi bắt đầu sự hoạt động của kích thích có điều kiện, thì ức chế chậm hình thành và sau đó thể hiện. Việc hình thành ức chế chậm rất khó, đặc biệt đối với những con chó dễ bị hưng phấn. Trên cơ sở của ức chế chậm, người ta hình thành được ở chó tính kiên nhẫn để có được các kỹ năng chung và các kỹ năng đặc biệt đã được quy định (ngồi, nằm, canh phòng tại chỗ, cầm vật …).>>
HOẠT ĐỘNG PHÂN TÍCH VÀ TỔNG HỢP CỦA VỎ BÁN CẦU ĐẠI NÃO>>
Hoạt động thần kinh cao cấp của động vật được thể hiện ở hình thức phân tích (phân tích ra thành các yếu tố thành phần) và hình thức tổng hợp các lúc nhận kích thích của môi trường bên ngoài và môi trường bên trong. Hoạt động phức tạp này được thực hiện là nhờ có 2 quá trình cơ bản, đó là hưng phấn và ức chế.
Các cơ quan phân tích - là các cấu trúc thần kinh tạo ra sự phân tích tinh vi nhất (phân tích 1 chỉnh thể ra thành các yếu tố thành phần) đối với tất cả các kích thích mà chó thu nhận được từ môi trường bên ngoài và từ môi trường bên trong của cơ thể: sự tổng hợp của chó cũng như vậy.
Ví dụ, một con chó dã được luyện tập quen với việc chọn đồ vật có thể chọn được chính xác một vật cần thiết theo mùi giữa 10 - 15 các đồ vật khác, mặc dù các đồ vật đó có các mùi khác nhau. Trong điều kiện phòng thí nghiệm có thể thử được sự phân biệt rõ ràng giữa 100 nhịp đập của máy nhịp. Trong q phút với 96 nhịp đập và phân biệt được sự giao động giữa 500 âm với 498 âm và những tác động khác.
Ví dụ về sự gắn bó mật thiết giữa hoạt động phân tích và hoạt động tổng hợp của vỏ đại não là cơ sở của cấu trúc của phản xạ có điều kiện. Phản xạ có điều kiện là sự tổng hợp, là sự nối liền kích thích có điều kiện với phản ứng do chính kích thích đó gây ra. Việc phân tích và tổng hợp diễn ra đồng thời và điều này tạo khả năng cho việc hoàn thiện liên tục phản xạ có điều kiện: phản xạ lúc đầu xuất hiện không rõ ràng, sau đó dần dần trở nên chính xác và nhất định. Điều đó được cắt nghĩa bởi sự ưu việt trong thời gian đầu hình thành phản xạ có điều kiện của việc hình thành phản xạ có điều kiện, do sự khuyếc tán của hưng phấn, sự lan rộng phản xạ dần dần phát triển. Trong khi tiếp tục củng cố vững chắc phản xạ, chúng ta đạt được sự thể hiện chính xác và nhất định của nó (thời kỳ đặc biệt của phản xạ có điều kiện). Đối với trường hợp này, tất cả các phản xạ giống nó về mặt phản ứng lại các kích thích hỗn hợp thì đều bị mất đi ý nghĩa của mình, chúng bị dập tắt do sự phát triển của ức chế biệt hoá.
Khi đặc biệt hoá phản xạ có điều kiện thì hoạt động phân tích của vỏ não bộ cũng có một cách tạm thời. Việc đặc biệt hoá diễn ra nhanh hơn khi tín hiệu chủ yếu được củng cố, còn các kích thích hỗn hợp thì được áp dụng không có củng cố.
Trên cơ sở của hoạt động liên kết lẫn nhau giữa phân tích và tổng hợp của vỏ não đã tạo ra cho động vật khả năng thích nghi đối với điều kiện để tồn tại. Nơi mà động vật cần phản ứng lại đối với một tập hợp các kích thích thì sẽ xảy ra hoạt động tổng hợp, còn nơi mà động vật cần phản ứng lại từng kích thích nghiêm ngặt nhất định thì sẽ xảy ra hoạt động phân tích. Đối với trường hợp này, động vật trả lời bằng sự ức chế đối với tất cả các kích thích khác nhau, ngoài ra còn đối với cả kích thích gây ra phản ứng dương.
Ví dụ, trong việc truy lùng dấu vết, ở chó thể hiện cả hoạt động phân tích hoạt động tổng hợp của vỏ não bộ. Chó cần phải tìm dấu vết của một người bất kỳ nào đó, ở trường hợp này là hoạt động chung. Nhưng khi chó tìm dấu vết của một người cụ thể căn cứ theo mùi, chó sẽ phân tích chính xác (hoạt động phân tích) mùi của dấu vết với các mùi lạ khác. Đối với các mùi này, chó thể hiện ức chế biệt hoá. Nếu chó bị bắt buộc phải tìm dấu váêt chỉ của một người trong suốt cả thời gian nó làm việc thì hoạt động tổng hợp của vỏ não sẽ hạn chế và chó sẽ không tìm dấu vết theo mùi của những người khác. Do đó cần phải tập luyện cho chó biết tìm dấu vết của nhiều người khác nhau, nghĩa là phải liên tục thay đổi người phụ việc.
Do vậy, hoạt động phân tích và tổng hợp của vỏ đại não có 1 ý nghĩa rất quan trọng đối với cơ thể động vật. Nó cho phép chó có khả năng định hướng trong hoàn cảnh xung quanh và phản ứng lại các kích thích khác nhau một cách đúng đắn.