I. Nguồn gốc, phân bố và mô tả.
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
ffice
ffice" /><o
></o
>
Theo phân loài, Chích chòe than trước đây chúng được phân loài nằm trong một chi của dòng họ Hoét (Turdidae), nhưng hiện nay nó được xem như là một phần của họ Đớp ruồi (Muscicapidae) và nằm trong bộ Sẻ. Chúng được phổ biến trong vườn chim thành thị cũng như loài chim rừng. Chúng rất nổi tiếng với các giọng hót to và đặc biệt phong phú về chất giọng, khiến chúng trở thành một trong những đối tượng chim nuôi lồng rất phổ biến.
<o
></o
>
Phân bố ở nhiều khu vực vùng nhiệt đới Nam và Đông Nam Á như Bangladesh, các khu rừng mưa nhiệt đới ẩm Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan, Indonesia, Thailand, phía Nam Trung Quốc và Philipin và các khu rừng gần trang trại chăn nuôi…
<o
></o
>
Chích chòe than hay còn gọi là Chích chòe phương Đông có tên khoa học là Copsychus saularis bởi nhà Điểu học Linnaeus vào năm 1758 , tiếng Anh gọi chúng là Oriental Magpie Robin (Linnaeus). Chúng có chiều dài khoảng 19cm (7,5 inch) kèm theo một bộ đuôi dài linh hoạt. Là một loài chim đặc biệt với hai màu trắng – đen. Với con trống phần đầu, họng và lưng có màu đen bóng, phần dưới bụng, mặt dưới của đuôi và trên vá vai có màu trắng. Trong khi đó, con mái có các màu xám đen và xám trắng ở các vị trí vừa nêu. Con non có vảy màu nâu chạy dọc.
></o
>
II. Tập tính sinh sản:
<o
></o
>
Tại Ấn Độ, mùa sinh sản phổ biến từ tháng 3 đến tháng 7 trong năm. Thông thường là từ tháng giêng đến tháng 6 tại các nước Đông Nam Á. Chúng làm tổ trong các hốc cây, hốc tường hoặc tự xây tổ lấy. Con mái tham gia hầu hết các họat động liên quan đến tổ trước cả tuần trước khi đẻ trứng vào. Tổ của chúng có mùi rất đặc trưng. Trong khỏang 24 giờ sau, con mái đã đẻ khoảng 4 – 5 trứng. Trứng có hình bầu dục, màu xanh lá cây. Thường có màu xanh nhạt với những đốm nâu. Con mái ham ấp trứng, một mình ấp trứng suốt từ 8 – 14 ngày đến khi trứng nở.
Con mái rất nỗ lực trong việc chăm sóc con cái hơn chim trống. Còn con trống khá năng nổ trong mùa sinh sản và sẽ bảo vệ quyết liệt lãnh thổ sinh sản cho cả đôi. Trong lúc này, con trống với các giọng hót du dương, dụ dỗ, cảnh báo hoặc hù dọa các loài khác. Chúng có khả năng bắt chước giọng hót của các loài chim hót khác như là một phần giọng hót của chúng. Do vậy, giọng hót của chúng luôn luôn phát triển và vô số giọng hót khác mà chúng được học từ các lòai chung quanh, là yếu tố cạnh tranh, phát triển giống nòi.
<o
></o
>
Trong thiên nhiên, con non trưởng thành khỏang 6 tháng. Tuổi bình quân là 10 năm. Cá biệt, nếu được chăm sóc tốt, thức ăn phong phú, môi trường sống thuận lợi chúng có thể sống tới 15 năm.
<o
></o
>
Chúng thường hót vào lúc sáng sớm trước lúc bình minh nhưng mọi hoạt động của chúng thường làm lúc hoàng hôn. Chúng sử dụng nước mưa, hay những giọt sương còn đọng trên lá cây để tắm, chúng rất thích được tắm. Những con chim thường xuyên được tắm có một bộ lông mượt mà, trông khỏe mạnh cộng với bản năng tự vệ, bảo vệ lãnh thổ quyết liệt và sức hút mạnh mẽ của giọng hót là vũ khí để chúng sinh tồn. Trở thành một đối tượng nuôi hót, nuôi đá với sức bền khá dẻo dai.
Chúc các ACE có thêm tài liệu để tham khảo.
Thân.
(Bài tổng hợp và lược dịch trên các trang nước ngoài, tham khảo trang wikipiede. Ảnh sưu tầm từ trang google.)
<?xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com
Theo phân loài, Chích chòe than trước đây chúng được phân loài nằm trong một chi của dòng họ Hoét (Turdidae), nhưng hiện nay nó được xem như là một phần của họ Đớp ruồi (Muscicapidae) và nằm trong bộ Sẻ. Chúng được phổ biến trong vườn chim thành thị cũng như loài chim rừng. Chúng rất nổi tiếng với các giọng hót to và đặc biệt phong phú về chất giọng, khiến chúng trở thành một trong những đối tượng chim nuôi lồng rất phổ biến.
<o
Phân bố ở nhiều khu vực vùng nhiệt đới Nam và Đông Nam Á như Bangladesh, các khu rừng mưa nhiệt đới ẩm Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan, Indonesia, Thailand, phía Nam Trung Quốc và Philipin và các khu rừng gần trang trại chăn nuôi…
![23431657699fa617771c.jpg](http://img9.imageshack.us/img9/5120/23431657699fa617771c.jpg)
<o
></o
>
Trong một cuộc khảo sát gần đây vào năm 2007 tại Úc, người ta mới biết được loài chim này đã được nhập vào trước đó rất lâu, chúng không phải là một loài chim thuộc bản địa này. Tại Singapore, Mã Lai và Hongkong chúng phổ biến với cái tên là Kampung hoặc Cerang từ những năm 1920, nhưng đến năm 1970 - 1997, có lẽ do có sự cạnh tranh thị trường trong các cuộc tìm nuôi nhiều giống chim nuôi lồng loại mới khác, đồng thời điểm chính quyền nước này không cho phép được đánh bắt với số lượng lớn để kinh doanh thương mại, nhằm phục vụ việc bảo tồn – duy trì nòi giống, phong trào nuôi loại chim này tạm thời lắng xuống. Tại Sri Lanka, chúng được gọi là Polkichcha. Tại Miến Điện và các vùng ở phía Nam Mianmar gọi là musicus. Và tại quốc gia được gọi là thiên đường của các lòai chim là Bangladesh, chúng được gọi là Doyel hoặc Doel theo tiếng Bengali là দোয়েল. Tại đây, hình ảnh của chúng là biểu tượng của quốc gia: xuất hiện trên các ghi chú tiền tệ, được đặt tên và biểu tượng công viên tại thành phố Dhaka là Doyel Chatwar (nghĩa là: Doyel Square – tạm dịch là thành phố khu chim Doyel).<o
>Doyel Chatwar, <o
>Dhaka, Bangladest</o
></o
>
<o
><o
>
</o
></o
>
<o
><o
></o
></o
>
<o
><o
></o
></o
>
<o
><o
></o
></o
>
Năm 1737, lần đầu tiên chúng được gọi là dhyal hoặc dhayal do Eleazar Albin và Levaillant. Vào thời đó, với cách nghĩ của con người “trái đất là trung tâm vũ trụ” và loài chim này được nghĩ rằng chúng gọi được mặt trời nên tại Ấn Độ chúng cũng có tên là Cadran (tiếng Anh có nghĩa là sun-dial). Liên đới từ “sun-dial” qua chữ Latin, gọi là solaris/saularis. Nhưng thực tế, vào năm 1893 – 1896, trong một cuộc điều tra viết từ điển phân ngành cho các lòai chim, chữ saularis (trong pháp danh khoa học) có từ nguyên là saulary, bắt nguồn từ tiếng Hin-di đã được tiếng Anh hóa thành saularis bởi bác sĩ phẩu thuật học James Petiver – người đầu tiên mô tả giống chim này đã nhận mẫu vật từ Madras kèm theo tên gọi là Saulary theo tiếng Hin-di. <o
![doyelchatwar1amr.jpg](http://img40.imageshack.us/img40/1866/doyelchatwar1amr.jpg)
<o
<o
<o
<o
Chích chòe than hay còn gọi là Chích chòe phương Đông có tên khoa học là Copsychus saularis bởi nhà Điểu học Linnaeus vào năm 1758 , tiếng Anh gọi chúng là Oriental Magpie Robin (Linnaeus). Chúng có chiều dài khoảng 19cm (7,5 inch) kèm theo một bộ đuôi dài linh hoạt. Là một loài chim đặc biệt với hai màu trắng – đen. Với con trống phần đầu, họng và lưng có màu đen bóng, phần dưới bụng, mặt dưới của đuôi và trên vá vai có màu trắng. Trong khi đó, con mái có các màu xám đen và xám trắng ở các vị trí vừa nêu. Con non có vảy màu nâu chạy dọc.
![2243198123039fcb3096.jpg](http://img4.imageshack.us/img4/1820/2243198123039fcb3096.jpg)
<o
></o
>
Chim chòe than thường được thấy trên mặt đất hoặc nhìn thấy trên những cành cây thấp với cái đuôi dựng đứng một cách đặc biệt, trong môi trường ẩm thấp nhiệt đới và vùng mưa rừng với đầy giẫy lá, cành cây hoai mục bên dưới – nơi chứa phần lớn các loại côn trùng, là thức ăn chính của chúng. Một cặp chim Chích choè than chuyền
<o
>
</o
>
<o<o
![copsychussaularisadulta.jpg](http://img21.imageshack.us/img21/4313/copsychussaularisadulta.jpg)
</o
II. Tập tính sinh sản:
<o
Tại Ấn Độ, mùa sinh sản phổ biến từ tháng 3 đến tháng 7 trong năm. Thông thường là từ tháng giêng đến tháng 6 tại các nước Đông Nam Á. Chúng làm tổ trong các hốc cây, hốc tường hoặc tự xây tổ lấy. Con mái tham gia hầu hết các họat động liên quan đến tổ trước cả tuần trước khi đẻ trứng vào. Tổ của chúng có mùi rất đặc trưng. Trong khỏang 24 giờ sau, con mái đã đẻ khoảng 4 – 5 trứng. Trứng có hình bầu dục, màu xanh lá cây. Thường có màu xanh nhạt với những đốm nâu. Con mái ham ấp trứng, một mình ấp trứng suốt từ 8 – 14 ngày đến khi trứng nở.
Chích choè trống
![orientalmagpierobincops.jpg](http://img40.imageshack.us/img40/3738/orientalmagpierobincops.jpg)
Chích choè mái
![48986012357b25daf0c.jpg](http://img40.imageshack.us/img40/5172/48986012357b25daf0c.jpg)
Con mái rất nỗ lực trong việc chăm sóc con cái hơn chim trống. Còn con trống khá năng nổ trong mùa sinh sản và sẽ bảo vệ quyết liệt lãnh thổ sinh sản cho cả đôi. Trong lúc này, con trống với các giọng hót du dương, dụ dỗ, cảnh báo hoặc hù dọa các loài khác. Chúng có khả năng bắt chước giọng hót của các loài chim hót khác như là một phần giọng hót của chúng. Do vậy, giọng hót của chúng luôn luôn phát triển và vô số giọng hót khác mà chúng được học từ các lòai chung quanh, là yếu tố cạnh tranh, phát triển giống nòi.
<o
Trong thiên nhiên, con non trưởng thành khỏang 6 tháng. Tuổi bình quân là 10 năm. Cá biệt, nếu được chăm sóc tốt, thức ăn phong phú, môi trường sống thuận lợi chúng có thể sống tới 15 năm.
<o
Chúng thường hót vào lúc sáng sớm trước lúc bình minh nhưng mọi hoạt động của chúng thường làm lúc hoàng hôn. Chúng sử dụng nước mưa, hay những giọt sương còn đọng trên lá cây để tắm, chúng rất thích được tắm. Những con chim thường xuyên được tắm có một bộ lông mượt mà, trông khỏe mạnh cộng với bản năng tự vệ, bảo vệ lãnh thổ quyết liệt và sức hút mạnh mẽ của giọng hót là vũ khí để chúng sinh tồn. Trở thành một đối tượng nuôi hót, nuôi đá với sức bền khá dẻo dai.
Chúc các ACE có thêm tài liệu để tham khảo.
Thân.
(Bài tổng hợp và lược dịch trên các trang nước ngoài, tham khảo trang wikipiede. Ảnh sưu tầm từ trang google.)